Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

Vai trò của người Hoa trong việc hình thành và phát triển các đô thị ở Trung và Nam bộ Việt Nam (thế kỉ XVIII-XIX)

Vai trò của người Hoa trong việc hình thành và phát triển các đô thị ở Trung và Nam bộ Việt Nam (thế kỉ XVIII-XIX)
ThS. Tống Thị Quỳnh Hương *
Đại học Sư phạm Hà Nội
Đặt vấn đề Người Trung Hoa đến Việt Nam khá sớm, ít nhất cũng vào khoảng đầu Công nguyên. Trải qua nhiều thế kỉ, người Hoa đã xuất hiện trên khắp ba miền của nước ta, tuy nhiên, những người Hoa di cư đến miền Bắc chủ yếu là quan lại và binh lính của các đội quân xâm lược nhiều hơn là thương nhân đến buôn bán (ngoại trừ một bộ phận người Hoa ở Phố Hiến, Thăng Long), do vậy ở miền Bắc nước ta, những cộng đồng người Hoa thường nhỏ lẻ, không có quy mô lớn và tiêu biểu như ở miền Trung và miền Nam. Cũng như người Hoa ở các nước Đông Nam Á khác, người Hoa đến Việt Nam trải qua một quá trình sinh sống và buôn bán lâu dài, họ đã lập nên những làng, những phố của mình, hình thành nên những cộng đồng người Hoa ổn định và phát triển, trở thành một bộ phận cư dân của cộng đồng dân tộc Việt. Trong khoảng từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, cùng với sự hình thành các cộng đồng người Hoa, ở miền Trung và Nam Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều đô thị, trung tâm thương mại rất sầm uất với vai trò nổi bật của các Hoa thương. Những đô thị này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong nhiều thế kỉ. Một số đô thị như: Thanh Hà, Bao Vinh, Cù Lao Phố, Hội An, Chợ Lớn… đã trở thành những trung tâm buôn bán, trung chuyển hàng hóa quan trọng trong khu vực và quốc tế.

1. Bối cảnh định cư của người Hoa ở Việt Nam thế kỉ XVII – XIX
Thế kỉ XV, sau thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của nhà Minh, nhà Lê sơ được thành lập, quốc gia Đại Việt trở thành một vương quốc cường thịnh ở Đông Nam Á. Nền kinh tế hàng hóa phát triển tạo điều kiện để có thể phát triển một nền thương mại toàn diện. Thuyền bè các nước láng giềng vẫn thường xuyên qua lại trao đổi ở các cảng Vân Đồn, Vạn Ninh (thuộc Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (thuộc Nghệ An)… Tuy nhiên, để giữ vững an ninh, nhà nước đặt các trạm kiểm soát ở cảng khẩu để kiểm soát chặt chẽ những thương nhân nước ngoài ra vào buôn bán ở nước ta 1, bởi vậy những mối quan hệ thương mại với Trung Hoa và các nước trong khu vực có phần bị hạn chế. Năm 1527, triều Mạc (1527 – 1592) thay thế triều Lê, tuy không giữ được sự ổn định và thống nhất đất nước, nhưng chính sách kinh tế nhất là chính sách đối với thương nghiệp của nhà Mạc tỏ ra cởi mở hơn triều Lê. Nhưng cũng từ giữa thế kỉ XVI, nhà Minh chuyển từ việc kiểm soát chặt chẽ ngoại thương bằng chính sách “Hải cấm” sang nới lỏng ngoại thương thì Việt Nam lúc này lại lâm vào tình trạng chia cắt kéo dài cho đến tận cuối thế kỉ XVIII. Khởi đầu là sự tái lập triều Lê (1532) dẫn đến cuộc chiến tranh Lê- Mạc (1539-1592), tiếp theo là thời kì phân chia Đàng Trong – Đàng Ngoài, biểu hiện là cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài (1627 – 1672). Trong những thời kì nội chiến đất nước chia cắt gây nhiều tổn hại cho nhân dân, nhưng cũng chính trong nhu cầu cạnh tranh gây dựng lực lượng, các chính quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài đều phải chăm lo phát triển kinh tế, tranh thủ sự hỗ trợ của ngoại thương. Trong thời kì Đàng Trong – Đàng Ngoài thì thái độ mỗi bên đối với hoạt động ngoại thương có khác nhau, đặc biệt là đối với Hoa thương. Đàng Ngoài của họ Trịnh có phần dè dặt và thận trọng đối với hoạt động buôn bán của Hoa thương, chính quyền Trịnh tìm cách tách Hoa thương khỏi người Việt. Nhưng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại có thái độ hoàn toàn khác, họ hiểu rằng cần phải có buôn bán nếu Đàng Trong muốn tồn tại lâu dài. Chính vì thế, người Nhật và người Hoa không những được tạo điều kiện thuận lợi cho sinh sống và buôn bán ở Đàng Trong mà còn được tham gia vào bộ máy chính quyền ở đây.
Bắt đầu từ nửa sau thế kỉ XVII trở đi, những kiều dân Trung Hoa được phép định cư ở những trung tâm kinh tế, đô thị, hải cảng của Việt Nam, đặc biệt là những vùng đất thuộc miền Trung và Nam Bộ ngày nay. Do đó, trong thời gian này, các cộng đồng người Hoa đã dần hình thành nên những phố chợ, trung tâm kinh tế tại nhiều nơi như Phố Hiến, Hội An, Chợ Lớn, Gia Định, Hà Tiên…Sự nhập cư ồ ạt của người Hoa và sự hình thành các cộng đồng của họ như một thực thể dân cư tương đối ổn định trong cơ cấu dân cư- dân tộc Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ XVII, một phần là kết quả của chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa Nguyễn và sau đó là triều Nguyễn đối với những di dân người Trung Hoa 2. Người Trung Hoa không những được phép cư trú vĩnh viễn tại Việt Nam mà họ còn nhận được rất nhiều ưu đãi từ phía chúa Nguyễn (1592 – 1771) và sau đó là triều đình Nguyễn (1802 – 1945) như được hưởng quyền công dân như người Việt Nam (nếu có nguyện vọng sinh sống lâu dài), không phải làm nghĩa vụ quân dịch và lao động công ích, được trao quyền thu thuế đối với những người giỏi nghề buôn bán và giao dịch, họ còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi khác trong lĩnh vực kinh tế…Nhà Nguyễn cũng cho phép người Hoa được lập nên những Bang hội truyền thống của họ. Tổ chức đồng hương (Bang) của người Hoa đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1787. Vào năm 1814, dưới thời vua Gia Long (1802 – 1819), tổ chức Bang được chính thức hóa về mặt pháp lý. Bang được thành lập dựa trên cơ sở đồng hương, đồng phương ngữ, nhằm mục đích bảo vệ sự an toàn tính mạng, của cải vật chất của người Trung Hoa di cư trên đất khách quê người. Mặt khác, thông qua các Bang, nhà Nguyễn có thể quản lý việc làm ăn, sinh hoạt và đi lại của người Hoa một cách dễ dàng hơn 3. Nhờ những chính sách của triều Nguyễn, rất nhiều người Trung Hoa di cư đã tạo dựng được cơ nghiệp một cách vững chắc ở Việt Nam. Điều này đã thu hút thêm những làn sóng di cư mới của người Hoa đến nước ta, công việc buôn bán phát đạt của người Hoa đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nên những trung tâm buôn bán, những đô thị sầm uất ở những nơi họ sinh sống.
2. Vai trò của người Hoa với việc hình thành và phát triển các đô thị ở Trung và Nam Bộ Việt Nam (Thế kỉ XVII- XIX)
2.1. Phố cảng Thanh Hà ở Thuận Hóa
Phố Thanh Hà lập ra năm nào, không có tư liệu ghi chép. Nhưng có lẽ là trong khoảng thời gian từ 1636 đến 1687, khi phủ Chúa Nguyễn rời về Kim Long, Chúa bèn cho phép tiên hiền trong làng kiến thiết khu chợ, tức phố Thanh Hà. Có thể niên đại thành lập phố Thanh Hà là khoảng vài năm sau khi chúa Nguyễn rời phủ đến Kim Long “Kim Long là miền đất văn hóa ở gần kề ngôi chùa cổ kính nổi tiếng. Từ trạm trung chuyển cuối cùng này, chỉ cách trung tâm Huế ngày nay 3 Km- cái bàn đạp để việc nhích tới Phú Xuân vào năm 1687 đã được tạo ra cho đất thủ phủ được gần miền đất kinh tế Bao Vinh, Thanh Hà hơn…”4. Phố cảng Thanh Hà ra đời từ một làng quê, nhưng với vị trí thuận lợi, trên bến dưới thuyền, cư dân sẵn có truyền thống buôn bán, Thanh Hà đã trở thành nơi hội tụ hàng hóa của nhân dân các vùng lân cận. Người Hoa đến Thanh Hà đã góp phần không nhỏ vào sự phồn thịnh của thương cảng này. Thanh Hà nhanh chóng trở thành một thương cảng lớn nhất thời Kim Long – Phú Xuân. Thanh Hà là địa chỉ thương mại hấp dẫn của thương khách nhiều nước, trước hết là thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản của châu Á, của các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…5
Trong thời kỳ thịnh đạt, phố Thanh Hà phần lớn nằm trong tay Hoa thương nên gọi là “Đại Minh khách phố”. Về mặt hành chính, buổi đầu phố Thanh Hà trực thuộc phố Hội An ở Quảng Nam, đến thời Tây Sơn (1786 – 1801) mới tách riêng thành một đơn vị hành chính độc lập với tên gọi “Minh Hương xã Thanh Hà phố”. Vào đầu triều Nguyễn đặt làm “Thanh Hà – chợ Dinh nhị phố Minh Hương xã”6.
Đầu tiên, Thanh Hà phố chỉ rộng 1 mẫu 5 thước 4 tấc (mẫu ta), đến năm 1669 mở rộng lên 7 mẫu 5 sào 8 thước 2 tấc. Về sau thương nhân người Hoa mua thêm trên bờ sông 4 mẫu 1 sào 3 thước để cất phố buôn bán, cụ thể là: Năm 1685, Hoa thương đã xây dựng Thiên Hậu cung (còn gọi là chùa Bà) ngay trên điểm cư trú buôn bán đầu tiên của mình để làm nơi tế tự chung cho Hoa kiều và cũng là mốc giới phía Bắc của phố Thanh Hà. Tại điểm tận cùng phía Nam của phố, người Hoa mua đất của làng Địa Linh để lập phố và xây dựng đền thờ Quan Thánh (còn gọi là chùa Ông) để làm đền thờ chung, đồng thời đây cũng là mốc giới giữa phố Thanh Hà và làng Địa Linh. Phố xá ban đầu chỉ là một dãy nhà tranh, sau thành hai dãy song song nhau dọc theo bờ sông. Đến khoảng thời gian trước hoặc sau năm 1770, Hoa thương đã được chúa Nguyễn cho phép xây dựng phố bằng gạch và lợp ngói để phòng hỏa hoạn. Một người Pháp là Pierre Poivre khi đến Thuận Hóa đã từng trú ngụ trong một gian phố gạch ấy. Ông cho rằng cách bày trí nhà cửa giống hệt Trung Hoa, giữa hai dãy phố có con đường rải đá, cư dân buôn bán sầm uất “Vào mùa mưa, các đường phố chật hẹp, lầy lội, chỉ có phố hay khu Trung Hoa có một lối đi rộng và lát gạch. Dọc hai bên đường người ta dựng lên những nhà gạch lợp ngói khá sung túc”. Phố bao gồm những cửa hàng, cửa hiệu, các đại lý xuất nhập khẩu và những nhà cho thuê dành cho thương khách ở xa, chủ yếu là thương nhân Trung Quốc mới đến.
Đầu thế kỉ XX, Morineau đến khảo sát Thanh Hà, căn cứ trên dấu tích còn lại, tác giả đã khôi phục khu phố như sau: “Những làng của người Hoa lai Việt, một số sắp thành hàng trên bờ sông, đó là những túp lều tranh dựng trên những bộ cọc nhà sàn. Một số khác là cửa hàng giàu có xây gạch và lợp ngói chiếm phía Bắc con đường mòn hoặc đường phố thành một dãy phố chạy dài đến tận các đồng lúa. Đất phố mà trên đó gồm các công trình kiến trúc xây dựng rộng rãi từ đền thờ Quan Công dựng lên khi làng Minh Hương mới thành lập đến tận đường mòn Thanh Hà, nơi vị trí bây giờ ở cầu một nhịp. Đó là các dòng chảy đổ vào các ruộng lúa trên con đường mòn cũ”
Năm 1789, theo số liệu từ một tờ đơn bẩm quan của Hương Lệ xã Minh Hương thì dân số Thanh Hà phố lúc này là 792 dân nội tịch. Trải qua nhiều biến động của chiến tranh, đến năm này còn lại số dân đó, chứng tỏ trước đây phố Thanh Hà còn đông hơn. Thanh Hà khi đó đã trở thành một đầu mối giao thương quan trọng của vùng Thuận Hóa “Khách buôn Quảng Đông có người họ Trần, quen mua bán. Hắn nói rằng từ phủ Quảng Châu, do đường biển đến trấn Thuận Hóa, được gió thuận thì chỉ ba ngày ba đêm, vào cửa Eo, đến phố Thanh Hà ở Phú Xuân…”8, “Đấy là hàng đến. Còn hàng đi. Cũng tập kết ở Thanh Hà, đặc biệt là những thổ sản xứ Huế: hồ tiêu và cam…”9. Cảnh buôn bán nhộn nhịp ở phố cảng Thanh Hà vào giữa thế kỉ XVIII đã được Jean Koffler ghi nhận: “Hàng năm có khoảng 80 chiếc thuyền Hoa thương từ các tỉnh đến đó, chắc chắn chứng tỏ rằng ở đây có nền kinh doanh phồn thịnh”10 Khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, do sự bồi lấp của sông Hương, thương thuyền lớn không thể cập bến Thanh Hà phố được nữa. Người Hoa dời về Bao Vinh làm ăn. Thanh Hà phố dần dần rơi vào quên lãng. Phố cảng Bao Vinh từ đầu triều Nguyễn đã thay thế vị trí của trung tâm phố cảng Thanh Hà.
2.2. Đô thị Hội An Đô thị Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn, cách Đà Nẵng 26 km về phía Đông Nam, là một thương cảng lớn nhất của Việt Nam trong các thế kỉ XVI – XVIII. Thương cảng Hội An ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVI và phát triển mạnh trong thế kỉ XVII, XVIII. Khác với Phố Hiến, hầu như toàn bộ hoạt động buôn bán ở Hội An đều nằm trong tay các thương nhân nước ngoài, đặc biệt là các thương nhân Trung Hoa và Nhật Bản.
Những biến động trong nội địa Trung Quốc vào giữa thế kỉ XVII (nhà Minh sụp đổ, nhà Thanh giành được quyền thống trị – 1644) làm cho người Hoa qua Hội An ngày càng đông, vì Hội An nằm ở một vị trí thuận lợi trên đường biển quốc tế, không quá gần biên giới Trung Quốc như các tỉnh phía Bắc Việt Nam, nhưng cũng không quá xa như các nước Nam Dương, Mã Lai, lại nằm trong khu vực có tài nguyên phong phú, nên có sức hút nhất định đối với số dân di cư này. Hơn nữa, Quảng Nam là trấn giàu nhất trong xứ, phần nhiều sản vật quý đều do đất ấy sản xuất ra, lại ở gần Chiêm Thành, Quy Nhơn, nên dễ tập hợp những sản vật mà thuyền buôn ngoại quốc cần dùng. Thêm vào đó là lý do chính trị: nước ta đã có giao thương với Trung Quốc từ thời Tiền Lê, Lý, Trần, Lê sơ. Vì sợ người ngoại quốc giả mạo thương nhân để do thám, nên triều nào cũng chỉ cho phép họ tụ hợp lại những nơi nhất định, gọi là các “bạc dịch trường” để buôn bán và cấm cho họ đến kinh đô. Đời Lý đã lập bạc dịch trường ở Vân Đồn, tàu thuyền ngoại quốc đến buôn bán cũng chỉ được vào hải cảng ấy và thương khách cư trú tại đó. Đến thời Lê Thái Tổ chỉ định thêm mấy nơi nữa ngoài Vân Đồn cho thương khách làm nơi cư trú, nhưng cấm người Trung Quốc ra vào Thăng Long. Thời Trịnh- Nguyễn phân tranh, ngoài Vân Đồn, chúa Trịnh còn cho thương khách tập trung ở Phố Hiến, cho họ lập phố xá để tiện việc kiểm soát, và vẫn cấm họ ra vào Thăng Long. Chúa Nguyễn ở Đàng Trong đối với Hoa thương và thương khách ngoại quốc cũng áp dụng chính sách ngăn ngừa như các triều đại trước. Do đó, Hội An, nằm ở xa Phú Xuân, được chọn làm nơi tập trung của thương khách, cũng như Vân Đồn, Phố Hiến ở Đàng Ngoài ở xa Thăng Long 11.
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí”, mục tỉnh Quảng Nam đã viết về Hội An như sau: “Phố Hội An ở hai bên bờ sông lớn phía nam xã Hội An và Minh Hương, nhà ngói liên tiếp độ hai dặm, người Tàu cư trú có 5 bang: Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam và Gia Ứng, đều buôn bán hàng Tàu, trong có đình chợ, hội quán, khách buôn tụ tập. Phía nam có đầm Trà Nhiêu làm chỗ cho ghe thuyền nam bắc đến đậu, cũng là chỗ đại đô hội vậy”. Một giáo sĩ dòng Tên người Ý là Cristoforo Borri đã sống ở Đàng Trong từ 1618 đến 1622 cũng đã viết khá rõ về Hội An như sau: “Hải cảng đẹp nhất, tất cả người ngoại quốc đều tới đó và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng…Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật, người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán…Thành phố này gọi là Faifo, thành phố này khá lớn và chia làm hai khu vực, một dành cho người Hoa và một dành cho người Nhật, mỗi bên có quan cai trị riêng, người Hoa theo tục lệ Trung Quốc, người Nhật theo tục lệ Nhật Bản”12 và “…Người Trung Quốc và người Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên này, năm nào cũng mở và kéo dài trong vòng 4 tháng. Người Nhật thường đem lại 4,5 vạn nén bạc, người Trung Quốc thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ. Do chợ này, quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc cũng được nhiều lợi ích”13. Nói “hai thành phố”, nhưng thực ra chỉ là hai khu kiều dân. Khu kiều dân Nhật đông hơn, có ảnh hưởng lớn hơn. Nhưng từ năm 1614, sau khi Nhật hoàng Daifusama ra lệnh trục xuất các giáo sĩ ra khỏi lãnh thổ Nhật Bản thì những người Nhật theo đạo Thiên Chúa bắt đầu đến Đàng Trong ngày càng đông. Để ngăn chặn làn sóng người Nhật di cư đó, Nhật hoàng công bố lệnh sẽ xử tử những người trốn ra nước ngoài. Sau vụ giết đạo ở Nagasaki (1640), nước Nhật hoàn toàn đóng cửa với bên ngoài. Từ đó, khu kiều dân Nhật ở Hội An bị cắt đứt với nước mẹ, cứ tàn lụi dần, trong khi đó, khu kiều dân Trung Quốc thì vẫn tiếp tục gia tăng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động thương mại ở Hội An. Do đó, những hoạt động buôn bán của Hoa thương ngày càng tỏ ra chiếm ưu thế ở khu vực này. Họ đã tiến về phía Đông cầu Nhật Bản, mua 14,5 mẫu đất của các làng Hội An, Cẩm Phô, Cổ Trai, lập nên làng Minh Hương và mở rộng khu phố để kinh doanh.
Đến cuối thế kỉ XVII (năm 1695), một tàu buôn người Anh cập bến Hội An, T.Bowyear đã ghi lại: “Hải cảng chỉ có một phố lớn nằm bên bờ sông. Hai bên có hai dãy nhà chừng một trăm nóc, toàn là người Trung Hoa ở”. Cũng năm đó, Thích Đại Sán đến Hội An không còn thấy bóng dáng của Phố Nhật trước đây nữa, mà chỉ thấy: “Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập hợp của thương khách các nước; thẳng bờ sông một con đường dài 3, 4 dặm gọi là Đại Đường Nhai, hai bên là phố ở liền khít rịt. Chủ phố thảy là người Phúc Kiến vẫn còn ăn mặc theo lối Tiền Triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mãi…”14và “Quốc vương nói: các năm trước, thuyền ngoại thương đến buôn một năm chừng 5, 6 chiếc, năm nay số ấy lên đến 16, 17 chiếc, nhờ đó trong nước tiêu dùng được dư dã”15. Theo Pierre Poivre, một lái buôn phương Tây nhiều lần đến Hội An, thì vào thời phồn thịnh nhất của thương cảng này (giữa thế kỉ XVII), số người Hoa ở đây đạt con số kỉ lục là 6000 người “Ở Cochinchine (Đàng Trong) có nhiều cảng. Quan trọng nhất là hải cảng nà người Bồ Đào Nha gọi là Faifo và người Cochinchine gọi là Loja…Cảng sâu và an toàn, đặc biệt thuận lợi cho thương nhân, vì tàu có thể cập bến ngay trước sở thương chính. Faifo là hải cảng năng động nhất của xứ Cochinchine. Ở đấy có khoảng 6000 người Trung Hoa và là những thương nhân cỡ lớn. Họ lấy vợ bản xứ và nộp thuế cho nhà vua…” (trích “Hồi kí về xứ Cochinchine” của Pierre Poivre)16.
Lê Quý Đôn trong sách “Phủ biên tạp lục” hoàn thành năm 1776, đã viết về trung tâm thương nghiệp Hội An như sau: “Ở nơi đây (tức phố Hội An), vì các vị khách buôn Trung Quốc đều tới mua hàng đưa về Tàu, nên buổi trước hàng hóa rất nhiều, dầu có một trăm chiếc thuyền lớn chuyên chở hàng hóa trong một lúc không thể chở hết được”, “Các hàng hóa đều bán rất chạy, không có món hàng nào bị ế và ứ đọng cả. Bao nhiêu những hàng hóa mà y (nhà buôn Trung Hoa) đưa sang đây như sa, đoạn, gấm vóc ngũ sắc, vải tấm, trăm thứ thuốc bắc, giấy vàng, giấy bạc, dây vàng, dây bạc, các sắc dầu thơm, các hạng chỉ liệu (giấy), các sắc dây tơ, các màu thuốc nhuộm, các sắc quần, áo, giầy, giép, nhung, lược, kính hay gương pha lê, giấy, bút, mực, kim, khuy, cúc áo, bàn ghế, sa sao, đồ ăn uống thì có trầu lá, cam, lê, chanh, táo, bánh thị, bánh mì, miến, mì, nước mắm, dầu trám, đậu tương, đậu hủ, vôi, men, rượu, gừng, mộc nhĩ, hương tín (nấm hương),v.v…kẻ có người không, cùng nhau đổi chác, không ai là không thỏa được sở thích”17. Như vậy, qua những ghi chép của Lê Quý Đôn, có thể thấy việc buôn bán của các thương nhân người Hoa ở Hội An rất phát đạt và thuận lợi. Cũng theo ghi chép của Lê Quí Đôn thì các nhà buôn Trung Hoa ở Hội An thường mua đồng thau và các vật dụng bằng đồng từ các tàu buôn của người châu Âu và bán lại tại phố chợ Minh Hương18. Một nguồn thư tịch cổ khác cho biết vào thế kỉ XVIII, hầu như toàn bộ sản phẩm khai thác ở các mỏ vàng thuộc khu vực miền Trung của Việt Nam chủ yếu dành để xuất khẩu và thông qua trung gian, môi giới người Trung Hoa ở Hội An. Các thuyền buôn Trung Hoa thường đến Hội An vào mùa xuân, mang đến đây những vật phẩm như vũ khí, tơ lụa, trà, đồ gốm sứ, giấy quấn hương và các vật phẩm làm nghi lễ thờ cúng…Những mặt hàng này luôn là nhu cầu của thị trường Việt Nam lúc đó.
Ngoài Hội An, từ đầu thế kỉ XVII, người Trung Hoa cũng đến buôn bán ở Tân Châu (Quy Nhơn) và Đề-gi (cũng thuộc phủ Quy Nhơn) nhưng chỉ một số ít. Trong công việc kiểm soát ngoại thương, thu thuế thương thuyền, cứu giúp những thuyền ngoại quốc bị bão trôi giạt đến, các Chúa Nguyễn đã đặt ở Hội An một cơ quan gọi là Tàu vụ ty, trong đó có nhiều chức quan. Người Trung Quốc và người Minh Hương vốn có nhiều tri thức và kinh nghiệm về ngoại thương hơn người Việt, nên thường được Chúa giao phó giữ các chức quan ấy. Ngoài dân các xã Minh Hương có nhiệm vụ xem xét cân lượng, định giá hàng các tàu buôn và làm thông ngôn cho các tàu Trung Quốc và ngoại quốc. Công việc ấy cũng là sưu dịch rồi nên dân Minh Hương được miễn các thứ sưu dịch, sưu sai, quét chợ và tuần đò. Ước tính số tiền thu thuế do Tàu vụ ty thu được là không dưới 1 vạn quan, nhiều là hơn 3 vạn quan. Số thuế thu được ấy mỗi năm đem nạp vào kho 6 phần, còn 4 phần thì chia cho quan, lại, quân, dân đã phụ trách các công việc19. Bên cạnh đó, để xúc tiến các công việc kinh doanh của mình một cách thuận lợi, các nhà buôn Trung Hoa tại Hội An đã lập nên các Hội đoàn như “Hội xúc tiến thương mại đường biển” (thành lập năm 1715). Chức năng chính của Hội là ủng hộ về vật chất và tinh thần, khuyến khích mở rộng các hoạt động buôn bán tư nhân của các nhà buôn Trung Hoa trên đất Việt Nam. Như vậy, chính những hoạt động buôn bán của người Hoa đã góp phần làm cho Hội An trở thành một trung tâm thương nghiệp phồn thịnh và là trung tâm ngoại thương của cả Đàng Trong khi ấy.
2.3. Nông Nại Đại Phố (hay Cù Lao Phố) Khi đến Đàng Trong, nhóm di dân do Trần Thượng Xuyên lãnh đạo đã sớm phát hiện ra ưu thế của Cù Lao Phố và tập trung Hoa thương đến đây sinh sống và buôn bán. Cù Lao Phố vốn là một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài. Tuy nằm cách xa biển, nhưng lại là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, xuống tận phía Nam, ra cửa Cần Giờ, và có thể sang tận Cao Miên. Bởi vậy, phần lớn Hoa thương đã chuyển từ vùng đất định cư ban đầu là Bàn Lăng (Biên Hòa) về Cù Lao Phố. Sau đó, họ phát hoang, dựng nhà, lập bến, mở đường, xây dựng phố chợ. Chỉ trong vài thập niên, đến đầu thế kỉ XVIII, những di dân người Hoa đã biến Cù Lao Phố thành một thương cảng xuất nhập khẩu lớn thu hút thuyền buôn Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây.
Nông Nại Đại Phố nằm giữa cù lao trên sông Đồng Nai, đã được Trịnh Hoài Đức miêu tả trong “Gia Định thành thông chí” như sau: “Ở đầu phía Tây bãi là Đại Phố. Khi mới khai thác, tướng quân Trần Thượng Xuyên chiêu tập lái buôn người Trung Quốc lập ra phố xá, nhà ngói, tường vôi, lầu cao chót vót, quán mấy tầng rực rỡ bên sông dưới ánh mặt trời, liên tục năm dặm mở ra ba đường phố. Phố lớn lát đường đá trắng, phố ngang lát đường đá ong, phố nhỏ lát đường đá xanh, bằng phẳng như đá mài. Khách buôn tụ tập đông, thuyền biển, thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một nơi đô hội…”20. Tuy nhiên, sự thịnh vượng của Cù Lao Phố chỉ kéo dài đến nửa đầu thế kỉ XVIII thì bắt đầu đi xuống, vì nhiều nguyên nhân song chủ yếu do sự tàn phá của chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Cù Lao Phố từ khi hình thành và phát triển cho đến khi bị tàn phá, đã tồn tại được 97 năm (1679 – 1776).
2.4. Đất Hà Tiên của họ Mạc
“Hà Tiên nguyên đất của Chân Lạp, tục xưng là Mang Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành, khi ban đầu Mạc Cửu – người xã Lê Quách, huyện Khang Hải, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông nước Đại Minh, vào năm niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680) đời Đại Thanh, nhà Minh mất, ông Cửu không phục chánh sách nhà Thanh để tóc dài, qua Nam Vang nước Cao Miên…”21. Tuy nhiên, trong “Mạc thị gia phả” lại viết rằng: “…Cuối đời nhà Minh, đất Trung Quốc đại loạn, Mạc Thái Công húy Cửu, người Lôi Châu, sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm Ất Mùi, niên hiệu Vĩnh Lịch nhà Minh năm thứ chín (tức là năm 1655), do không chịu được sự nhiễu loạn của giặc Hồ, bèn vượt biển đi về phương Nam, trú ngụ ở Chân Lạp. Sự kiện này xảy ra vào năm Tân Hợi (tức là năm 1671). Năm đó Mạc Thái Công 17 tuổi. Thái Công được Quốc Vương Chân Lạp sủng ái và tin dùng, các việc buôn bán đều ủy thác cho Mạc Thái Công trông coi hết…”22. Như vậy, Mạc Cửu ra đi và đến Chân Lạp năm nào, bắt đầu xây dựng vùng đất Hà Tiên vào năm nào vẫn chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, chắc chắn là Mạc Cửu ra đi khi nhà Thanh đã lên nắm quyền thống trị ở Trung Hoa.
Sau khi đến Chân Lạp, Mạc Cửu đã xin Quốc Vương Chân Lạp cho ra trấn thủ ở đất Mang Khảm, “Lúc bấy giờ, Quốc Vương (Chân Lạp) nghe tâu rằng, nếu được ra Mang Khảm, Thái Công sẽ lo chiêu tập người buôn kẻ bán khắp bốn phương, thu lợi cho quốc gia không phải là nhỏ, bèn vui vẻ chuẩn y ngay, lại còn phong cho Thái Công làm Ốc nha. Thái Công ngày đêm lo chiêu tập người ở khắp hải ngoại đến buôn bán, tàu thuyền ra vào rất nhộn nhịp, người Việt, người Đường, người Liêu, người Man đua nhau kéo đến trú ngụ, hộ khẩu ngày một đông, tiếng tăm của Thái Công ngày một lừng lẫy”23.
Năm Mậu Tí (1708), đời vua Hiếu Tông Hiếu Minh Hoàng đế (Nguyễn Phúc Chu) sắc cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, phong tước Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu đã lập dinh trại đồn trú ở đất Phương Thành, nhân dân quy tụ ngày càng đông đảo 24.
Năm Ất Mão (1735), Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích) kế cha là Đô đốc trấn Hà Tiên. Lúc đó, Hà Tiên đã bắt đầu phồn thịnh, nên Chúa đã cho Thiên Tứ quyền hạn rộng rãi hơn: được cấp cho ba chiếc thuyền Long bài miễn thuế để thông thương với hải ngoại, được phép đúc tiền. Thiên Tứ là một vị Nho học, giỏi thơ văn, có nhiều tài năng. Thiên Tứ đã cho xây dựng thành lũy, lập quân ngũ, đặt nha thuộc, khuếch trương phố, chợ, tàu thuyền buôn bán ngoại quốc tới lui càng đông, ông cũng cho thuyền sang mậu dịch với Nhật Bản. Thiên Tứ lại vời những người văn học Việt, Hoa để lập ra nơi để cùng nhau giảng bàn học vấn, xướng họa thơ văn, gọi là Chiêu Anh Các, lễ giáo Trung Quốc dần dần thấm nhuần vào nhân dân đất này 25.
Viết về vùng đất Hà Tiên, sách Văn Hiến Thông Khảo đời Thanh (1747) có ghi chép như sau: “…Cảng Khẩu quốc là một xứ miền Tây Nam Hải, ở giữa An Nam và Xiêm La…Vua đương thời tên là Thiên Tứ (Mạc Thiên Tứ – con của Mạc Cửu). Lịch sử truyền ngôi chưa rõ. Xứ ấy có núi cao nhưng lãnh thổ chỉ vài trăm dặm. Thành lũy làm bằng cây. Nhà cửa không khác gì với Trung Quốc. Từ nhà của vương đến dân thường tất cả đều làm bằng gạch ngói. Trong cách ăn mặc họ bắt chước theo triều đại trước (triều Minh). Vương búi tóc bọc lưới, đội khăn hay mũ bằng nhiễu, mình mặc áo thêu rồng, đai bằng sừng, mang hia. Dân chúng mặc áo cổ cao, tay rộng…phong tục thì trọng văn, thích thơ ca. Trong xứ có miếu thờ Khổng Tử, từ vương đến nhà dân ai cũng thờ kính. Có một nhà nghĩa học dạy những thanh niên ưu tú mà nhà nghèo không có tiền ăn học. Những người Trung Hoa sang mà có khả năng thì được mời vào dạy học…”26. Hà Tiên đã nhiều lần bị chiến tranh tàn phá, thiệt hại nặng nhất là trận đánh phá của quân Xiêm năm 1771. Quang cảnh Hà Tiên mà Trịnh Hoài Đức ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” là đất Hà Tiên thời Gia Long đã được khôi phục và tu bổ với đền Quan Thánh bên phải, chùa Tam Bảo ở phía sau, chợ trấn ở phía Đông, miếu Hội Đồng ở phía Bắc. Hà Tiên được coi là nơi hội tụ của các văn nhân Trung Quốc đến từ Phúc Kiến, Quảng Đông, cũng là nơi việc giao dịch buôn bán với Nhật Bản và Trung Quốc sớm phát triển, là trung tâm của mối quan hệ ngoại giao Xiêm – Cao Miên- Đàng Trong. Năm 1676, nước Xiêm bị Miến Điện đánh chiếm, con vua Xiêm là Chiêu Thúy chạy sang nương náu ở Hà Tiên. Các cuộc xung đột giữa Đàng Trong với Cao Miên cũng được Mạc Thiên Tứ dàn xếp với kết quả là Cao Miên cắt đất để tạ lỗi Chúa Nguyễn hoặc tạ ơn vùng đất Hà Tiên đã giúp ông dựng nghiệp lớn. Có thể thấy, Hà Tiên là vùng đất được khai phá và phát triển mạnh mẽ, trong đó người Hoa có vai trò rất quan trọng. Cộng đồng người Hoa ở đây đã được hình thành từ khoảng nửa sau thế kỉ XVII. Hà Tiên đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trung tâm kinh tế và văn hóa nổi bật ở vùng nam Đông Dương. Cộng đồng người Hoa ở Hà Tiên độc lập nhưng không biệt lập, khép kín. Trong quá trình phát triển của mình, họ đã dần dần hội nhập vào Việt Nam về mọi phương diện.
2.5. Khu vực Chợ Lớn
Chợ Lớn cũng là khu vực sớm được những người dân Trung Hoa chọn làm nơi lập nghiệp. Thị trấn Chợ Lớn cách Sài Gòn 5 km về phía Tây Nam do người Hoa lập ra năm 1778, Chợ Lớn thường được gọi là chợ người Hoa, người đương thời còn gọi là Chợ Sài Gòn. Lê Văn Duyệt sau khi được bổ nhiệm làm Tổng trấn Gia Định đặt tên cho chợ người Hoa này là Chợ Lớn. Năm 1782, thị tứ này bị quân Tây Sơn tàn phá nặng nề. Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802 – 1820), Chợ Lớn bắt đầu phát triển một cách nhanh chóng. Ngoài việc buôn bán lúa gạo và các nông sản khác, Hoa thương ở đây đã làm chủ việc phân phối các mặt hàng nhu yếu phẩm tiêu dùng hàng ngày do các nhà buôn từ Trung Quốc, các nước trong khu vực Đông Nam Á và từ châu Âu chuyển tới. Trước thời điểm thực dân Pháp thiết lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ, ở thị trấn này đã có tới 500 ngôi nhà, có 2 kênh đào, 5 cái cầu (trong đó có 1 cầu làm bằng sắt), có nhiều kho hàng và các xưởng đóng thuyền. Hoạt động buôn bán của họ ở đấy tấp nập suốt ngày đêm 27.
Nơi đây “phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lẫn lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu…Những hóa vật ở Nam Bắc theo đường sông đường biển chở đến không thiếu món nào. Đầu phía Bắc đường phố lớn có miếu Quan Thánh và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu, phía tây đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng…ấy là một thị phố lớn và đô hội náo nhiệt”28. Đặc biệt, từ cuối thế kỉ XVIII, nhiều người Hoa bỏ đất Biên Hòa về Chợ Lớn sinh sống, làm cho dân cư khu vực này đông đúc hơn và phố thị ngày càng sầm uất. Chợ Lớn trở thành đầu mối cung cấp hàng hóa cho cả khu vực mà hầu hết những nhà buôn lớn là người Hoa. Người Hoa ở Chợ Lớn đã bước đầu thành lập nên các Bang, Hội của mình để quản lý việc buôn bán và tương trợ lẫn nhau trong quá trình định cư tại khu vực này.
Khu vực Chợ Lớn bao gồm nhiều thôn, xã, trong đó có xã Minh Hương. Chợ Lớn trước nằm trong địa hạt tổng Tân Long, sau là huyện Tân Long. Xã Minh Hương được thành lập từ năm 1698, cùng với nhiều thôn, xã khác của tổng Tân Long. Dân trong xã Minh Hương là những người Hoa đã nhập quốc tịch Việt, đa số làm nghề buôn bán chứ không có ruộng nương cày cấy nên phải đóng thuế theo quy chế “biệt nạp”. Năm 1771, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân đánh phá Hà Tiên, dân Hà Tiên không buôn bán được nữa, một số người Việt gốc Hoa ở đây đã phải chạy về Chợ Lớn để tá túc. Năm 1778, dân xã Thanh Hà gần như bỏ hẳn Cù Lao Phố gần Biên Hòa về Chợ Lớn trú ngụ. Từ đó, Chợ Lớn trở thành trung tâm tụ hội khá đông người Minh Hương. Những người Minh Hương ở đây chủ yếu làm dịch vụ xay xát, xuất cảng lúa gạo và các loại nông phẩm khác, đồng thời cung cấp nhu yếu phẩm xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang trên đà phát triển mạnh. Từ năm 1778, lưu dân đến quá đông, nhờ đào kinh Bảo Định, Rạch Cát, sau này thêm kinh Tàu Hủ nên việc vận chuyển hàng hóa trở nên dễ dàng hơn. Kinh Tàu Hủ (hay Kinh Chợ Lớn) được khởi công đào năm 1819, là đường thủy vận nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn với các sông ngòi tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi đây người Hoa vận chuyển hàng nhập cảng hay nội địa về bán cho cư dân lục tỉnh Nam Kì, sau đó mua lúa gạo, gia cầm và nông phẩm khác về bán lại. Hai bên bờ kinh sinh hoạt của người Hoa rất tấp nập 29.
Trên bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1795, địa bàn Chợ Lớn đã được mệnh danh là Bazar Chinois (chợ Trung Hoa, hay còn gọi là Phố Khách). Năm 1819, Huỳnh Công Lý cho đào sông An Thông để cho Chợ Lớn trở thành nơi “tấp nập, đô hội”. Sau đó, người Minh Hương đã góp sức xây thêm kè, lát thêm cầu tàu bằng đá, tạo thành một bến cảng lớn rất sầm uất. Năm 1822, một nhà ngoại giao cũng là một nhà khoa học người Anh Finlayson đến Sài Gòn đã đánh giá rằng mỗi cái trong hai thị trấn Bến Nghé (tức Sài Gòn sau này) và Sài Gòn (tức Chợ Lớn bây giờ) đều to lớn bằng kinh đô Bangkok của nước Xiêm. Ông mô tả “Nhà cửa rộng lớn, thích hợp với phong thổ. Mái lợp ngói. Cột điều mộc. Vách thì trét đất sét lên sườn tre rồi tô hồ lên. Nhiều nhà cao tầng, sàn bằng ván, xếp hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái rộng quang đãng. Phố xá ngay hàng thẳng lối hơn là ở nhiều kinh thành Châu Âu”30.
Trịnh Hoài Đức đã miêu tả trong “Gia Định thành thông chí” về Phố Chợ Lớn như sau: “Cách phía nam trấn 12 dặm, nằm hai bên quan lộ là thành phố lớn, ba đường xuyên thẳng giáp bến sông, một con đường chạy ngang ở giữa và một con đường dọc theo bờ sông. Phố xá liên tiếp liền mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lẫn lộn, dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm đoạn, đồ sứ, giấy mực, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bột…Những món hàng ở Nam Bắc theo đường sông đường biển chở đến không thiếu món nào…Phía đông đường lớn, giữa có phố chợ Bình An đủ sản vật quý báu ở núi ở biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán”31. Không chỉ là trung tâm buôn bán sầm uất trong nước, Chợ Lớn cũng mở rộng hoạt động buôn bán với nhiều nước trong khu vực. Các thương nhân người Hoa ở Chợ Lớn thường xuyên giao lưu buôn bán với thương nhân Campuchia, lại thêm chính sách đón nhận tàu buôn nước ngoài thời Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định làm cho các hoạt động buôn bán và sản xuất ở Chợ Lớn càng thêm phát triển. Vì vậy, đến nay người Hoa ở Chợ Lớn vẫn tổ chức cúng bái rất linh đình vào dịp lễ giỗ của Lê Văn Duyệt và coi ông là vị thần tài của Sài Gòn.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam kỳ và bắt tay vào cai trị thì tình hình cơ cấu, tổ chức của người Hoa ở Chợ Lớn cũng biến động theo. Năm 1865, Pháp cho thành lập một hội đồng quản hạt tại Chợ Lớn gồm 5 người Việt Nam, 15 người Hoa và 5 người Minh Hương. Hội đồng này có nhiệm vụ tiếp đón người Hoa di cư và thu thuế cư trú. Mỗi Hoa kiều nhập cư vào Việt Nam buộc phải gia nhập một trong bảy bang đã có từ thời Nguyễn (đó là các bang Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu, Hải Nam). Lúc này, Hội đồng quản hạt được coi là một đơn vị chính quyền tương đối độc lập với chính quyền trung ương, nó được phép ban hành những luật lệ riêng và không phải thông qua chính quyền thuộc địa như quản lý kiều dân, giá bán gạo, định mức xuất nhập cảng…Sau khi hoàn tất việc chiếm đóng Việt Nam (1884) và muốn giữ quan hệ ngoại giao tốt với Trung Hoa, chính quyền thuộc địa Pháp công nhận những người Hoa sống tại Việt Nam là công dân Trung Hoa, xác nhận sự bình đẳng của người Hoa với người Việt về nhiều phương diện, cả về tính mạng và tài sản, cho phép người Hoa đi lại tự do và được thành lập những cơ sở kinh doanh trên khắp lãnh thổ Nam Bộ. Tại Chợ Lớn, người Hoa cư ngụ trong mỗi phố được quyền thành lập một đại bang để quản lý những vấn đề nội bộ của người Hoa32. Khu vực Chợ Lớn hiện nay tuy đã có nhiều thay đổi so với trước đây, nhưng vẫn là một trong những trung tâm buôn bán phồn thịnh không chỉ của người Hoa mà còn có cả người Việt Nam, đồng thời nó cũng là một trung tâm kinh tế không thể thiếu của thành phố năng động bậc nhất Đông Nam Á là Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết luận Như vậy, sự có mặt của các thương nhân người Hoa trên một dải đất dài từ miền Trung đến miền Nam Việt Nam trong nhiều thế kỉ, đặc biệt là khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến XIX đã để lại những dấu ấn sâu sắc với các đô thị phát triển sầm uất. Các cộng đồng người Hoa không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hình thành những đô thị ở khu vực này mà những hoạt động kinh tế của họ còn góp phần đưa các đô thị đó trở thành những trung tâm thương mại sầm uất và thịnh vượng trong suốt ba thế kỉ. Thanh Hà, Hội An, Cù Lao Phố, Hà Tiên, Chợ Lớn…là những đô thị trong đó vai trò, đóng góp của người Hoa được thể hiện rõ nét trong quá trình hình thành và phát triển, tuy nhiên những hoạt động thương mại của người Hoa còn vượt ra ngoài những đô thị đó và góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta ở khu vực Đàng Trong. Trong số những đô thị còn lại đến ngày nay, chỉ có Chợ Lớn vẫn phát huy được vị trí của một trung tâm thương mại lớn ở một thành phố năng động bậc nhất Đông Nam Á và hàng ngày vẫn hòa vào sự phát triển chung của đất nước trong thời kì hội nhập và phát triển.
————
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Bang, Phố cảng Thanh Hà – Bao Vinh trung tâm thương mại Phú Xuân – Huế thế kỉ XVII – XVIII – XIX, Nghiên cứu Lịch sử, số 5, 2006.
2. Đỗ Bang, Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Hội An, Nxb Khoa học xã hội, 1991.
3. Dinh Đức Hầu Vũ Thế Dinh, Nguyễn Khắc Thuần dịch,Mạc thị gia phả, Nxb Giáo dục, 2005.
4. Huỳnh Ngọc Đáng, Chính sách của chính quyền Đàng Trong đối với người Hoa (từ năm 1600 đến năm 1777), Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
5. Nguyễn Đình Đầu, Quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
6. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977.
7. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Tập hạ, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972.
8. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Tập trung, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972.
9. Trần Văn Giàu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Văn Huy, Người Hoa tại Việt Nam, Nxb NBC, Paris, 1973.
11. Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Đà Nẵng, 1992.
12. Trần Khánh, Chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với dân Trung Hoa di cư, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2000.
13. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
14. Thạch Phương, Sự hình thành cộng đồng người Hoa di cư thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ XVII-XVIII, Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ – Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII- XIX, 2002.
15. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam cận đại- những sử liệu mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
16. Trương Hữu Quýnh, Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, 1998. 17. Nguyễn Cẩm Thúy (CB), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
18. Viện Sử học, Đô thị cổ Việt Nam, Hà Nội, 1989.
———-
Ghi chú:
1 Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1, NxbB Giáo dục, H.1998, tr.330
2 Trần Khánh, Chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với dân Trung Hoa di cư, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2000, Tr.69.
3 Trần Khánh, Chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam…., Bđd, tr.70
4 Viện Sử học, Đô thị cổ Việt Nam, Hà Nội, 1989, Tr.307
5 Đỗ Bang, Phố cảng Thanh Hà – Bao Vinh trung tâm thương mại Phú Xuân – Huế thế kỉ XVII – XVIII – XIX, Nghiên cứu Lịch sử, số 5, 2006, Tr.4
6 Đỗ Bang, Phố cảng Thanh Hà – Bao Vinh trung tâm thương mại Phú Xuân – Huế thế kỉ XVII – XVIII – XIX, Bđd, tr.4
7 Đỗ Bang, Bđd, tr.5
8Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.234
9 Lê Quý Đôn, Sđd, tr.234
10 Đỗ Bang, Bđd, tr.7
11 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969, Tr.530
12 Nguyễn Đình Đầu, Quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr.180
13 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, tr.530
14 Đỗ Bang, Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Hội An, Nxb Khoa học xã hội, 1991, tr.233 – 234
15 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, tr.r.537
16 Nguyễn Phan Quang, Việt Nam cận đại – những sử liệu mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998,Tr.139 17 Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, Sđd, tr.235
18 Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, Sđd, tr.326
19 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, tr..538 – 539
20 Thạch Phương, Sự hình thành cộng đồng người Hoa di cư thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII, Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ – Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII – XIX, 2002, Tr.391
21 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, tập Trung, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.79
22 Dinh Đức Hầu Vũ Thế Dinh, Nguyễn Khắc Thuần dịch,Mạc thị gia phả, Nxb Giáo dục, 2005, tr.14
23 Dinh Đức Hầu Vũ Thế Dinh, Nguyễn Khắc Thuần dịch,Mạc thị gia phả, Sđd, tr.15
24 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.80
25 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, tr.435
26 Huỳnh Ngọc Đáng, Chính sách của chính quyền Đàng Trong đối với người Hoa (từ năm 1600 đến năm 1777), Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.42
27 Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Đà Nẵng, 1992, Tr.46 28 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, tập Hạ, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972, Tr.98 – 99
29 Nguyễn Văn Huy, Người Hoa tại Việt Nam, Nxb NBC, Paris, 1973
30 Trần Văn GiàuĐịa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.244
31 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, tập Hạ, Sđd, tr.96 – 99
32 Nguyễn Cẩm Thúy (CB), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.23 14.

Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Tản mạn về danh xưng Đồng Nai


Tản mạn về danh xưng Đồng Nai

Danh xưng Đồng Nai có từ bao giờ thật khó mà khảo chứng chính xác. Về mặt hành chánh, tên gọi Đồng Nai được chính thức trở thành tên gọi đơn vị tỉnh bắt đầu vào năm 1976. Tỉnh Đồng Nai được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba tỉnh: Biên Hòa, Bà Riạ – Long Khánh, Tân Phú. Kể từ đó cho đến nay, tỉnh Đồng Nai trải qua nhiều lần thay đổi địa giới nhưng tên gọi vẫn giữ nguyên. Có thể nói rằng, danh xưng Đồng Nai trải qua bao thời kỳ lịch sử đã trở thành tên gọi thân quen của bao thế hệ con dân xứ sở nầy khi nhắc về một vùng đất ở miền Đông Nam Bộ, về dòng sông dài nhất nước phát tích từ nội địa hay về một Hào khí Đồng Nai oai hùng, vẻ vang đã đi vào trong lịch sử của dân tộc.

Theo một số sử sách xưa, danh xưng Đồng Nai được dùng để chỉ một vùng đất. Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn có viết: ”Đất Đồng Nai từ cửa biển Cần Gìơ, Soi Rạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu...toàn là rừng rậm hàng mấy vạn dặm...”. Trịnh Hoài Đức trong tác phẩm khảo cứu Gia Định thành thông chí ghi chép rằng: ”Bà Rịa ở đầu trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, nên các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng: cơm Nai Rịa, cá Rí Rang, ấy là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ vậy”. Bộ tư liệu sử Đại Nam nhất thống chí quyển thượng tập thứ năm, của Quốc sử quán triều Nguyễn có nhiều chỗ đề cập Đồng Nai , như:” chợ Lộc Dã ở phía Nam hạ lưu sông Phước Long, huyện Phước Chánh, nguyên xưa kia là cánh đồng hươu nai ở nên đặt tên ấy, hoặc gọi là Lộc Động, tục danh chợ Đồng Nai cũng là ở chỗ này. Xét sáu tỉnh Gia Định mà thông xưng là Đồng Nai vì khai thác chỗ Đồng Nai trước hết, nên cứ chỗ gốc cũng gồm đủ chỗ ngọn”. Những ghi chép trên và một số tư liệu trong sách sử khác thường được trích dẫn trong các công trình nghiên cứu giới thiệu về Đồng Nai sau này, bài viết này cũng không ngoài lệ đó.
Danh xưng Đồng Nai cũng xuất hiện nhiều trong các ca dao, tục ngữ như:
- ”Nhà Bè nước chảy chia hai 
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.” 

- “Đồng Nai xứ sở lạ lùng 
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.” 

- “ Làm trai cho đáng nên trai 
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng.” 

- “ Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai. 
Ai về xin nhớ cho ai theo cùng.” 

- “ Đồng Nai nước ngọt gió hiền 
Biên Hùng muôn thuở đây miền an vui.” 

- “ Đồng Nai gạo trắng nước trong 
Ai đi đến đó thời không muốn về.” 

- “ Hết gạo thì có Đồng Nai 
Hết củi thì có Tân Sài chở vô.” 

- “ Đồng Nai gạo trắng như cò 
Trốn cha trốn mẹ xuống đò theo anh.” 
*
- ” Đồng Nai nguồn mọi cao sang 
Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.” 

- “ Bao giờ cạn nước Đồng Nai 
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”. 

“ Rồng chầu ngoài Huế 
Ngựa tế Đồng Nai...”.vv.. 
Tên Đồng Nai cũng được định danh cho một nền văn hóa ở Nam Bộ hay phức hệ văn hóa của một nền văn minh tiền sử mà ngày nay chúng ta đưỡc biết qua những kết quả nghiên cứu khảo cổ học: Văn hóa Đồng Nai / Văn minh lưu vực sông Đồng Nai.

Đọc về một cái tên / danh xưng một vùng đất tưởng chừng như đơn giản hóa ra cũng phức tạp. Nếu chuyện người xưa đã gọi như vậy thì nay cứ như thế mà gọi thì quả tản mạn về danh xưng Đồng Nai không có lý gì để bàn. Chắc hẳn, cững nhiều danh xưng vô tình hay ngẫu nhiên được gọi mãi thành quen nhưng cũng có những danh xưng, tên gọi có nhiều ý nghĩa mà nguồn gốc của nó không phải một sớm một chiều để lý giải được căn cơ, ngọn nguồn. Danh xưng Đồng Nai nằm trong trường hợp thứ hai.

Từ trước tới nay, đã có nhiều cách lý giải, suy diễn về nguồn gốc hai chữ Đồng Nai. Tôi xin lược nêu lên những giả thiết sưu tầm được của các tác giả nghiên cứu về vấn đề này để mọi người tham khảo thêm.

Trong một bài viết của tác giả H.T.H tựa “Vài cảm nghĩ về hai tiếng Đồng Nai” đăng trên báo Văn Nghệ Đồng Nai xuân Tân Dậu, có nêu lên một số ý kiến xin được tóm lược như sau: Tác giả không đồng ý với Trịnh Hoài Đức trong tác phẩm Gia Định thành thông chí khi cho rằng Đồng Nai là cánh đồng có nhiều Nai “một Trịnh Hoài Đức, một Trương Vĩnh Ký và còn biết bao người nữa...đã khẳng định Đồng Nai là Đồng Bằng có Nai là sai, là lầm”. Về cách giải thích, H.T.H cho rằng: tỉnh Biên Hòa cũ nói chung là phần đất trung du của Nam Bộ. Ven sông Đồng Nai có đôi chỗ được gọi là đồng bằng nhưng đó chỉ là những trũng của miền trung du được phù sa sông Đồng Nai bồi đắp thành đồng bằng nhỏ, manh mún. Những vùng đất được gọi là đồng bằng ven sông Đồng Nai được trồng lúa nước với diện tích nhỏ, như vậy không có đồng ruộng bát ngát hay đồng cỏ mênh mông có nai ăn cỏ được. Không thể gọi là đồng đúng với từ địa lý hay so với các đồng bằng khác từ sông Sài Gòn xuống sông Vàm Cỏ, sông Trước...Tác giả đồng ý với quan điểm của nhà văn Bình Nguyên Lộc (tên thật là Tô Văn Tuấn (ông sinh ngày 7/3/1914, tại làng Uyên Hưng, tổng Chánh Mỹ Trung, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa- nay thuộc tỉnh Bình Dương), ông là một nhà văn và cũng là một nhà nghiên cứu với những công trình liên quan đến vùng đất Đồng Nai – PĐD). Bình Nguyên Lộc cho rằng:”riêng ở Biên Hòa thì toàn địa danh của người Mạ mà chúng tôi nghi là hậu duệ của Phù Nam. Tên Đồng Nai không phải là tên Việt Nam mà là tên của Mạ, họ gọi sông Đồng Nai là Đạ Đờng. Đạ là hình thức đầu tiên sẽ biến thành nước trong ngôn ngữ ta, qua Nác ở Huế và Dak của người Mường. Mạ: Đạ; Xtiêng: Đá; Bana, Sơđăng, Mường: Đák; Việt Nam, Thừa Thiên: Nác; Việt Nam: Nước; Cao Miên: Tứk. Đờng được biến thành Đồng...Như vậy, sông Đồng Nai là sông Đồng mà lưu vực có nhiều Nai". 
Trong bài viết nầy, tác giả H.T.H khẳng định: “Đồng bào dân tộc Mạ- Một cư dân quan trọng ở Đồng Nai- với địa bàn sinh sống của mình, trong đó có sông Đồng Nai. Họ đã gọi sông Đồng Nai là Đạ Đờng. Đạ là nơi xuất phát dòng nước, Đờng là sông. Từ Đạ Đờng có sớm nhất cũng 3.000 năm rồi. Và cách đây 300 năm, từ Đạ Đờng chuyển thành Đồng Nai. Thế có nghĩa từ Đờng chuyển âm thành Đồng, còn từ Đạ bỏ mất thêm chữ Nai: Đồng Nai...”

Như vậy, quan điểm này cho rằng danh xưng Đồng Nai bắt nguồn và chuyển dịch từ ngôn ngữ Mạ. Từ xuất phát điểm là hai chữ Đạ Đờng (chỉ sông lớn, sông cái) mà người Mạ dùng gọi con sông Đồng Nai (hiện tại).Trong quá trình hình thành, dần dà chữ Đạ mất đi, chữ Đờng được duy trì và đọc trại thành Đồng. Con sông Đồng có nhiều Nai để gọi thành sông Đồng Nai. Có thể tóm tắt như sau: Đạ Đờng _ Đờng _ Đồng + Nai = Đồng Nai. Cách lý giải này đưa đến một cách hiểu khác hoàn toàn với cách miêu tả của Trịnh Hoài Đức, cụ thể là: Đồng Nai bắt nguồn từ con sông lớn có nhiều nai chứ không phải là cánh đồng có nhiều hươu nai. 

Trong Hội thảo với nội dung:” 300 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai (1698 – 1998)” tại Đồng Nai, có nhiều bài tham luận của các nhà nghiên cứu, khoa học đề cập nhiều mặt trong diễn trình lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai . Trong đó, có hai bài có dề cập về tên gọi Đồng Nai. Tôi xin lược nêu những điểm đáng chú ý.

Tác giả Đỗ Quyên (tên thật là Đỗ Bá Nghiệp, nguyên là Giám đốc Bảo tàng Đồng Nai từ năm 1976 - 1997), có bài phát biểu “Danh xưng Đồng Nai”. Với mục đích cần thiết phải cân nhắc, bàn bạc để tìm ra cách lý giải thỏa đáng, có sức thuyết phục về danh xưng Đồng Nai, tác giả đã nêu một vấn đề đáng chú ý như: 
  • Tên sông Đồng Nai có trước hay tên đất có trước. Người ta lấy tên sông để gọi tên vùng đất nó chảy qua hay lấy tên vùng đất ấy đặt tên cho dòng sông? Ngay cả khi sông Đồng Nai có tên chữ là Phước Long thì phủ Phước Long mượn tên dòng sông hay ngược lại ?
  • Các danh xưng Thù Nại, Nông Nại rồi Lộc Dã, Lộc Động là sự chuyển dịch ngôn ngữ từ Đồng Nai ra hay ngược lại ?


Tác giả cũng nói lên chính kiến: “Dù sao, thì nhiều người nhìn nhận cấu trúc ngôn ngữ danh xưng Đồng Nai là thuần Việt” và đơn cử những địa danh gắn với con vật móng guốc, ăn cỏ (Nai) như: Đồng Nai, Hố Nai, Hang Nai, Bàu Nai...và những địa danh gắn với từ Đồng như: Đồng Tràm, Đồng Lách, Đồng Đế, Đồng Tranh, Đồng Môn...Dẫn theo một tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh/ tác giả nhiều công trình nghiên cứu về Địa bạ thời Nguyễn/ tham gia tại Hội thảo), tác giả Đỗ Quyên cho biết: “Danh xưng Đồng Nai được phiên âm ra tiếng Pháp là Donnai với chữ i créma và các giáo sĩ Bồ Đào Nha ghi Dounai trên chữ u có dấu grouppetto ( ) đọc là Đồng Nai, từ giữa thế kỷ 17 người Pháp cũng định nghĩa Đồng Nai = champ des cerfs, là đồng có nai.”. Đồng thời, tác giả cũng lưu ý: “Ở đôi bờ dòng sông đi qua (sông Đồng Nai -PĐD), từ cuối thế kỷ trước (thế kỷ 19- PĐD), các nhà khảo cổ Pháp và nhất là sau giải phóng, khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện, khai quật và ghi tọa độ hàng trăm dấu vết của nền văn minh cổ lưu vực sông Đồng Nai. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội, trình độ văn minh và sự phát triển ngông ngữ thế nào để chứng minh là người thời đại đồng đã gọi sông Đồng Nai là Dah Đờng thì xin thận trọng”. Tác giả Đỗ Quyên đã đưa ra nhiều vấn đề khá lý thú và có lẽ không tán thành quan điểm “ Từ Đạ Đờng có sớm nhất cũng từ 3.000 năm rồi” của tác giả H.T.H được nêu trên.

Bài “Nguồn gốc, ý nghĩa và quá trình phát triển của địa danh Đồng Nai” của PTS Lê Trung Hoa trong hội thảo đưa ra những vấn đề như sau:

  • Địa danh Đồng Nai có lẽ ra đời vào gần thời điểm năm 1658, nhân sự kiện vua Nặc Ông Chân “ xâm phạm biên cảnh”, quân chúa Nguyễn đã đánh vào Moi Xoai. (Địa điểm này được xác định như sau: Khi ấy địa đầu Gia Định là Mỗi Xuy/ hay Mô Xoài và Đồng Nai/ Biên Hòa trấn đã có lưu dân Việt đến trú ngụ, sinh sống. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình nhà Nguyễn đem nhượng cả đất ấy, rồi tránh ở chỗ khác, không tranh trở chuyện gì. Sự kiện này được Trịnh Hoài Đức nêu trong Gia Định thành thông chí, tập trung, khi Khâm mạng Trấn Biên dinh/ tức trấn Phú Yên là Yến Vũ hầu, tham mưu Minh Lộc hầu và Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3.000 quân vào Môi Xoai/ Mỗi Xuy giải quyết vụ việc vua Cao Miên xâm phạm biên cảnh vào tháng 9 năm Mậu Tuất / 1658 - PĐD).
  • Địa danh Đồng Nai xuất hiện bằng chữ quốc ngữ lần đầu tiên trong một báo cáo của Giáo hội Thiên Chúa giáo về tình hình giáo dân ở Nam Bộ năm 1747 với cách gọi là Dou-nai. Sau đó, địa danh Đồng Nai xuất hiện vừa bằng chữ Nôm vừa bằng chữ quốc ngữ vào năm 1772 trong từ điển An Nam – La tinh của Pigneau de Béhaine/Dictionariumannamtico-latinum. Hai chữ Hán và Nôm mà tác giả dùng để phiên âm địa danh Đồng Nai về sau này các tác giả như: Lê Qúi Đôn/Phủ Biên tạp lục/1776, Trịnh Hoài Đức/ Gia Định thành thông chí /1820,Taberd/Dictionariumannamtico- latinum/1838, Huỳnh Tịnh Của/ Đại Nam quốc âm tự vị/1895-896,Génibrel/Dictionnaireannamite-francais/1898, cũng viết như thế. Như vậy,tất cả các sách từ điển và sách sử, địa đều nhất trí đều nhất trí về cách viết bằng chữ Nôm địa danh Đồng Nai .
  • Về nghĩa hai chữ nầy, các tác giả đều hiểu là “cánh đồng có những con nai ”. Khi cần dịch sanh chữ Hán, các nhà nho đã dùng hai chữ Lộc Dã/Lộc là con nai,  là cánh đồng. Các nhà Hán học cũng hiểu từ ghép Đồng Nai vốn có nghĩa như trên. Một số khác thay vì dùng Lộc Dã, lại dùng Lộc Động/ có lẽ hiểu theo nghĩa đen là Hang Nai. Như vậy, không khớp nghĩa với Đồng Nai và thực tế con Nai không ở trong hang. Ngoài trường hợp dịch nghĩa và dịch nghĩa-phiên âm trên còn có trường hợp phiên âm thuần túy từ Đồng Nai thành Nông Nại. Từ Đồng được phiên âm thành Nông có thể chấp nhận vì hai phụ âm “đ” và “n” cùng phụ âm đầu lưỡi, có nhiều tiền lệ chuyển đổi như thế; còn từ Nai trong tiếng Hán-Việt không có, nên phải dùng từ Nại là âm tiết tương cận để phiên. Tác giả Lê Trung Hoa lưu ý về những cái tên như: Lộc Dã, Lộc Động, Nông Nại không phải là những địa danh thực thụ mà chỉ là tên dịch, tên phiên âm hoặc tên vừa dịch vừa phiên âm của địa danh Đồng Nai.
  • Đồng Nai là một cấu trúc “từ chỉ địa hình + tên thú” rất phổ biến tại Việt Nam, đặc biệt là ở Nam Bộ. Một số ví dụ điển hình như: rạch Bến Trâu, Gò Công, Hố Bò, cầu Rạch Đĩa, ấp Bàu Trăn...ở thành phố Hồ Chí Minh; còn yếu tố Nai hay Hươu xuất hiện trong địa danh cũng khá nhiều như: Hố Nai, Đồng Hươu/ ở Biên Hòa; rạch Nai, ấp Bàu Nai, sông Mũi Nai, Hóc Hươu/ ở thành phố Hồ Chí Minh.
  • Cho đến nay, dịa danh Đồng Nai đã chỉ ít nhất 8 đối tượng, tức là có 8 địa danh Đồng Nai theo trình tự phát triển như sau: cánh đồng có nhiều nai, một vùng trong địa phận tỉnh Đồng Nai hiện nay; chợ ở hạ lưu sông Đồng Nai vào thế kỷ 19, cách thị xã Biên Hòa độ 5 dặm / “chị Hươu đi chợ Đồng Nai. Ghé qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò.”; chỉ cả vùng miền Đông Nam Bộ/ “ Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.”; chỉ tên sông Đồng Nai vì chảy qua miền Đông Nam Bộ; chỉ cả Nam Bộ/“Đồng Nai gạo trắng như cò. Trốn cha, trốn mẹ xuống đò theo anh” và trong bài “Chạy Tây” của Nguyễn Đình Chiểu “Bến Nghé của tiền tan bọt nước. Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”; chỉ cây cầu trên xa lộ Hà Nội, bắc qua sông Đồng Nai được làm trong khoảng thời gian từ 1955 –1961; chỉ tỉnh Đồng Nai được thành lập vào năm 1976; ngoài ra còn có địa danh Đồng Nai Thượng/ tên một tỉnh ở thượng nguồn sông D9ồng Nai, lấy Đà Lạt làm tỉnh lỵ. Lập năm 1899 và giải thể năm 1901.
  • Đối với tên nước Thù Nại, tác giả cho rằng không có quan hệ gì với địa danh Đồng Nai vì mấy lý do . Trước hết, các nhà sử học chưa nhất trí về tên gọi nước này (Thù Nại, Thù Cấm hay Chu Nại?). Kế đến, nước này nằm ở bộ phận nào (Nam Bộ hay nơi khác?). Mặt khác, Nai có thể liên hệ về ngữ âm với Nại, chứ Cấm thì không. Còn Thù và Chu hoàn toàn không có quan hệ về âm và nghĩa với Đồng. Sau cùng, tên nước này vốn là một từ ngữ cổ được Hán Việt hóa, còn Đồng Nai là một từ ngữ thuần Việt và xuất hiện trong thời kỳ cận đại.
Trong công trình nghiên cứu “Cù Lao Phố, lịch sử và văn hóa” do Nhà Bảo tàng Đồng Nai thực hiện, xuất bản năm 1988/ nhiều tác giả; có đề cập đến địa danh Đồng Nai. Chương mở đầu/ Khởi nguyên Cù Lao Phố có đoạn viết:”Ở nước ta, hầu như đâu đâu cũng có một dòng sông gắn với một vùng đất. Sông Đồng Nai, từ buổi đấu mở cõi về phương Nam, có vai trò quan trọng là đưa những nguồn nhân lực đến đây khai hoang lập nghiệp và nó đã nối kết các cộng đồng cư dân cũ mới, hòa trộn các ngọn nguồn văn hóa để rồi cấu thành một tổng thể đa chất và với một nỗ lực trung nguyên nào đó chúng ta cũng tìm ra được những hạt giống nguyên sơ ánh lên một sắc màu riêng biệt.

Chẳng hạn, ngay cái tên sông Đồng Nai quen thuộc đến mức thân thương này cũng không phải là cái tên cổ nhất mà nó chỉ xuất hiện với tư cách là tục danh của Phước Long Giang, từ hơn 300 năm trở lại đây – khi con cháu của vua Hùng đến chặt nhát dao đầu tiên vào cánh rừng trải dài hàng nghìn dặm từ cửa Xoài Rạp lên đến thượng nguồn của nhữ ng con suối, những dòng sông; trong đó có sông Đồng Nai mà người Mạ gọi là Đạ Đờng.

Đạ Đờng theo J. Boulbet thì: Đạ ( Dáa: phiên âm của Boulbet) là nước, dòng nước, chất lỏng; và Đạ Đờng ( Dáa Doòng)là “ dòng sông, ở đây chỉ sông Đồng Nai thượng; người Mạ có dòng sông riêng của họ, và đặt tên là sông Cái ( cours d!eau majeur ); đây là cách gọi dảnh riêng cho chính dòng sông đó” (
J. Boulbet: Pays des Maa, domaine des génies/ Nggar Maa, ngaar Yaang – E.F.EO, Paris, 1967). Căn cứ vào dữ liệu mà Boulbet khảo cứu, chúng ta có thể định rằng từ Đồng trong tên sông Đồng Nai bắt nguồn từ âmĐờng của tên sông Cái/ Đạ Đờng của người Mạ. Nói cách khác, tên sông Đồng Nai không có nghĩa là Lộc Dã: cánh đồng có nai; và vấn nạn tiếp theo là từ “Nai”. 

J.Boulbet có đưa ra từ kép hao ning và giải nghĩa hao ning là leo dốc, có âm và nghĩa gợi cho chúng ta sự liên hệ với địa danh Hố Nai. Điều này cho phép chúng ta giả định từ “nai” của tên sông Đồng Nai có thể bắt nguồn từ từ “ning” của người Mạ. Theo đó, Đồng Nai phải chăng là “ Đờng Ning”: sông Cái (có) bờ dốc đứng”. Và trong một đọan khác cũng của chương này nhắc đến danh xưng “Nông Nại Đại Phố”: Thật ra, danh xưng “Nông Nại Đại Phố” không phổ biến trong xứ ta mà nó được Trinh Hoài Đức, khi đi sứ qua cống Đại Thanh “đã thấy sử Trung Quốc chép người Đồng Nai là người Nông Nại”. 

Một công trình nghiên cứu khác với tên gọi “Làng Bến Cá xưa và nay” do Nhà Bảo tàng Đồng Nai quản lý, tác giả Diệp Đình Hoa, Phan Đình Dũng thực hiện, xuất bản năm 1998, cũng đề cập đến địa danh Đồng Nai. Ngay từ đầu chương một có tên gọi Đồng Nai và Bến Cá, các tác giả đi ngay vào địa danh Đồng Nai.


Phần Đồng Nai được viết như sau: ”Đồng Nai là một địa danh thuần Việt, ngày nay là tên của một trong 61 tỉnh thành. Nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh Đồng Nai , tuy rất rõ ràng song vẫn làm băn khoăn không ít người muốn quan tâm một cách thấu đáo. Thế kỷ XIX, các tác giả của cuốn Đại Nam nhất thống chí  (ĐNNTC) đã: “xét: 6 tỉnh Gia Định mà gọi chung là Đồng Nai, là vì lúc mới khai phá, bắt đầu từ Đồng Nai , nên lấy chỗ gốc mà bao trùm”. Do đó có thể thấy rằng cho đến thế kỷ XIX, Đồng Nai có thể là một địa danh chỉ một địa điểm cụ thể, một làng, xã, ấp thôn, một địa danh lớn như phạm vi một tỉnh hiện nay, một địa danh phiếm chỉ cả vùng Đông Nam Bộ, hoặc cả một vùng đầu thế kỷ XX này, chúng ta vẫn quen gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, tức 6 tỉnh của vùng đất Nam Bộ. Đồng Nai là một địa danh trực chỉ, cụ thể, vừa có vinh dự được sử dụng như một địa danh phiếm chỉ, khái quát.

Thế kỷ XVIII, chữ Quốc ngữ xuất hiện trong các báo cáo của giáo hội Thiên Chúa giáo, các nhà nghiên cứu đã lưu ý đến cách phiên âmDounai. Giáo sĩ người Pháp thì viết chữ con chữ i, créma. Giáo sĩ người Bồ thì viết con chữ u, groupptto. Về mặt chữ nghĩa, hai âm Duvà Nai đã được khẳng đinh vào thế kỷ XVIII, sớm nhất là năm 1747. Về mặt ý nghĩa, các tác giả đều hiểu theo âm thuần Việt, nghĩa làcánh đồng của những con nai. Géniberi chuyển ngữ sang Pháp văn là: La plaine aux cerfs. Các nhà Hán học khi chuyển ngữ sang Hán văn là Lộc Dã, Lộc Động. Nông Nại là Minh âm, theo thổ ngữ Quảng Đông. Lê Trung Hoa cho rằng phụ âm đầu lưỡi đ có thể chuyển sang n, nhưng đó lại là quy luật của tiếng Việt. Người Trung Quốc không có phụ âm đầu lưỡi đ. Dù sao đây cũng chỉ là nhận thức của những con người ở thế kỷ XVIII về vùng đất mà chúng ta quan tâm.

Từ thế kỷ XVII trở về trước, địa danh mà chúng ta đang quan tâm được ghi chép như thế nào? Trinh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí, là người đầu tiên dẫn Cựu Đường Thư, nêu ra nghi vấn về một vùng đất Thù Nại có liên quan đến Gia Định. Lê Trung Hoa đồng ý với Nguyễn Đình Đầu , cho rằng địa danh Thù Nại chả có liên quan gì đến địa danh Đồng Nai, vì hai âm Đồng và Thù không có liên quan gì với nhau. Hơn nữa vị trí của nước Thù Nại cũng chưa xác minh được. Nói tóm lại, đó là những vấn đề phiên âm, ngữ âm, ngữ nghĩa... Cựu Đường Thư tuy không phải do Lưu Hưởng viết, nhưng người ta vẫn xem ông như tác giả, có lẽ hoàn thành vào thời Hậu Tấn, vào khoảng 941-945 AD. Sách này cho biết nước Thù Nại, vào thời Vĩnh Huy (650-655) nhà Đường, bị nước Chân Lạp diệt.


Đối với các nhà địa lý cổ, Việt Nam cũng như Trung Quốc, phong cách định vị theo lối phiên âm phiếm chỉ rất phổ biến, vì đó là cách dùng một nơi đã biết để chỉ một vùng chưa biết rõ. Cho đến thế kỷ XIX, các nhà địa lý Việt Nam vẫn còn sử dụng khái niệm Đồng Naiđể chỉ cả vùng Nam Bộ. Vì thế việc định vị nước Thù Nại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Điều này cũng tương tự như việc định vị hàng loạt những vùng được gọi là nước ở trong vùng như: nước Chi Kỳ, nước Xích Thổ, nước Bà Lỵ...

Bây giờ chúng ta thử khảo cứu âm Thù trong địa danh Thù Nại. Như trên đã đề cập, hiện nay liên quan đến con chữ đ, phiên âm Bắc Kinh là t , căn cứ vào những chữ Hán Việt thông dụng, theo Từ điển tứ giác, Từ điển tân hoa... vấn đề này có liên quan đến 304 chữ. Trong số này chuyển sang âm Hán Việt, với con chữ đ có 155 chữ, chiếm 50,98%, với con chữ th có 138 chữ chiếm 45,39%. Số còn lại 11 chữ, chiếm 3,61% với các âm d (1 trường hợp), kh (2 trường hợp), n (1 trường hợp), ph (1 trường hợp), s (5 trường hợp), x (1 trường hợp). Như vậy khi chuyển sang âm Hán Việt, âm đ và âm th, là hai trường hợp cùng tồn tại. Âm đ chuyển hẳn sang âm thuần Việt, còn âm th vẫn còn bảo lưu ở âm Hán hiện đại, qua con chữ t của phiên âm Bắc Kinh.

Năm 1747 với ký tự Dou Nai của các giáo sĩ Thiên chúa giáo, chúng ta có thể khẳng định rằng âm Thù đã tồn tại suốt 800 năm. Từ âmThù – Dou biến thành âm Đồng là sự phát triển vào thế kỷ XIX. Cần nhớ rằng trong khối từ Hán Việt không có từ đu, mà chỉ có một âmdu khi chuyển qua đ và th.

Thù là một từ phiên âm qua ký tự Hán Việt, cho nên nó vô nghĩa. Trong tiếng Việt: thù, với đặc trưng thuần Việt, lại có ý nghĩa.

Đứng ở góc độ dân tộc thực vật học, một phạm trù còn lưu giữ được nhiều kiến thức dân gian nhật, chúng ta có thể hiểu được phần nào sự bảo tồn của triết lý dân gian qua tên gọi. Người miền Nam gọi cây đu đủ là cây thù đủ. Cây thù đủ là cây ngoại nhập, carica papaya L. họ đu đủ Caricaceae. Ở đây có vấn đề chữ nghĩa hóa âm thù sang âm đu. Hiện tượng này không phải cá biệt. Trong đợt khảo sát tại Cà Mau năm 1995, người dân Cà Mau dùng cây thù lù, Physalis Angulata L. để chữa bệnh. Đây là loại cây thuộc họ cà, Solanaceae. Cùng loại này, có các loại cây khác được gọi cùng tên như: thù lù nhỏ ( Physalis Peruviana L.), thù lù kiểng ( Physalis Alkekengi L.). Một cây họ đinh lăng, A raliaceae, cũng được dùng làm thuốc, là cây thù dù, Trevesia Cavaleriei ( Lév.) Grushv Skvorts. Ý nghĩa của chữ thù ở đây có nghĩa là lớn.


Nại trong Thù Nại cũng là phiên âm từ ký tự Hán cho nên vô nghĩa. Thế kỷ XIX khái niệm nai được hiểu là con nai. Điều này đúng vì nailà từ thuần Việt, có ý nghĩa rõ ràng. Dù sao cách hiểu đã nêu bao hàm cách lý giải mang tính phát triển. Trong kho từ vựng tiếng Nôm, từnai còn có nghĩa là vò đựng rượu. Ngày nay từ nai đã được thay thế bằng các từ vò, bình, vại, chum, chóe. Các bằng chứng về khảo cổ học cũng đã chứng thực vùng Đồng Nai – Biên Hòa, trong suốt 4.000 năm phát triển vẫn là một trung tâm sản xuất gốm, rất thịnh vượng. Thù Nại phải chăng là một vùng, trong quá trình tồn tại của nó, được người đương thời biết đến qua sản phẩm nổi tiếng về những chóe đựng rượu.

Nếu thù có nghĩa là lớn thì còn vấn đề có liên quan đến ngữ pháp tiếng Việt. Thù rồi tiếp đến sự định hình là đou, với tác dụng là một tính từ, cho nên vị trí của nó phải đứng ở đằng sau danh từ mà nó có nhiệm vụ bổ ngữ. Sự linh hoạt của tiếng Việt đã chứng thực vấn đề vị trí và tác dụng này có thể hoán đổi. Trường hợp các loại cây cỏ với âm thù đã dẫn trên là một ví dụ. Một điểm khác nữa thay vì nói cỏ xanh, ngực đỏ, người Việt vẫn nói xanh cỏ, đỏ ngực. Những ví dụ như thế còn nhiều, như: đông đồng, vắng chợ... 

Phiên âm Thù Nại có liên quan đến những vấn đề của nguyên tộc Việt cổ, còn phiên âm Đồng Nai, một từ thuần Việt, có liên quan đến người Việt. Trong quá trình kế thừa và phát triển gần 1.000 năm, sự thay đổi từ ngữ là điều tất yếu. Đó cũng là một trong những quy luật khi nghiên cứu về địa danh học. Thù là tiếng phiên âm cổ nhất đối với vùng đất Việt cổ, cách đây 1.000 năm. Điều này có liên quan đến những từ Hán Việt, vốn còn giữ gốc Đường âm. Quá  trình phát triển làm nầy sinh các âm: Chu, Nông, Đông... cũng không có gì là lạ. Động thái này cuối cùng được định hình với nghĩa đồng là cánh đồng, một vùng đồng bằng trước núi, phù hợp với quan niệm địa lý hiện đại. Động thái phát triển của phiên âm nai, được định hình là con nai, với âm chữ nghĩa hóa là lộc. 

Trên đây chúng tôi chỉ giới thiệu một khả năng để hiểu phiên âm từ nai, chủ yếu dựa vào chứng thực của khảo cổ học. Thật ra âm naicòn liên quan đến hai nghĩa nữa: một có liên quan đến âm nái, cái, có nghĩa là núi, là mẹ, là lớn; một có liên quan đến dân tộc thực vật học. Người vùng này còn dùng từ nai đồng nghĩa với từ bổi ở phía Bắc, chỉ các cây thuốc họ mộc xỉ, Dryopte-ridaceae, chủ yếu là giống Arachniodes sp. Vùng đồng bằng sông Chu, sông Mã họ dùng từ này để chỉ các loại cây ngứa, họ cây ngứa Urticaceae, chủ yếu là các loại cây lá han, Villebrunea sp. Một hiện tượng thiên nhiên mang tính phổ biến, nhưng chỉ có một nơi đặc thù hóa, được định hình qua địa danh. Từ Việt cổ đến tộc Việt là một quá trình có nguồn gốc đa nguyên.
Những điều đã nêu trên phản ánh triết lý về tính năng động của người Việt..

Trong Địa chí Đồng Nai (gồm 5 tập: Tổng quan, Địa lý, Lịch sử, Kinh tế, Văn hóa-Xã hội ) của tỉnh Đồng Nai, xuất bản năm 2001, ngay từ đầu tập Tổng quan/ phần Địa danh và Lược sử do Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới biên sọan, đã đề cập về nguồn gốc của địa danh Đồng Nai. Tác giả đã lược kết những nguồn tư liệu, giả thuyết, lý giải của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó có đọan viết:” Theo tài liệu của Trương Bá Cần/ Lược sử Công giáo Nam Bộ ( thế kỷ XVI, XVII,XVIII), trong một bản tường trình của thừa sai Gouge viết năm 1701, thân sinh của linh mục Laurent cùng với một số người trong gia đình đã đến vùng Dou - Nai ( Đồng Nai ) khai phá, cày cấy từ 29 năm trước. Thư của Giám mục phó Labbé gởi Ban giám đốc Chủng viện Truyền giáo nước ngoài đề ngày 24.7.1710, có đọan:” Có một miền gọi là Dou – Nai ( Đồng Nai ) ở giữa Cao Miên và Chiêm Thành đây là một vùng đồng bằng, đất tốt, khá rộng và dài, rừng rậm, cây to, nơi mà người Đàng Trong đến lập nghiệp từ 35 hay 40 năm nay”. Như vậy, từ đầu thế kỷ XVIII, địa danh Đồng Nai đã được các nhà truyền giáo ghi chép từ tên gọi dân gian đã phổ biến trước đó vài chục năm”.

Những tư liệu được dẫn ra trên đã góp phần làm rõ về nguồn gốc, ý nghĩa của địa danh Đồng Nai. Từ những nguồn tư liệu, cách lý giải, suy đoán của các nhà nghiên cứu cho thấy có nhiều điểm tương đồng song cũng có những ý kiến chưa thống nhất với nhau.

Lần giở trong chồng tư liệu sưu tầm, chúng tôi thấy có hai lời ngỏ khá lý thú có đề cập đến tên gọi Đồng Nai. Xin được lược trích, giữ nguyên văn câu chữ để giới thiệu:

Thứ nhất là tạp chí Đồng Nai số 1 (15 Février 1932)/ ra đời năm 1932, cơ quan tại 331, Frère Louis, Sài Gòn, giây nói – 704; có đoạn viết như sau:”...Chúng tôi riêng nghỉ: trong Lục Châu, cái tên Đồng - Nai cùng cái tên Bến - Nghé có thể tương đương với tên Núi - Tản, sông - Lô ngoài Bắc, tương đương với tên Sông - Hương, Núi - Ngự ngoài Kinh, nghỉa là có thể làm biểu hiệu cho một góc trời Nam. Ở xứ Nam Kỳ nầy có mấy nơi giàu lịch sử cho bằng con sông Đồng Nai, con sông Bến Nghé, là mấy nơi chứng kiến bao nhiêu cảnh tang thương biến đổi trong khoản ngoài trăm năm nay.... 

Còn cái tên Cọp Đồng – Nai mà người ta ban cho Phò - mả Vỏ - tôn - Tánh gẫm không phải là vô vị ? Chớ như ở Chung Xá bọn quân của Võ - văn - Dũng (Tây - Sơn) nửa đêm vì có nai chạy lạc trong trại, la: Nai, Nai, mà tưởng quân Đồng Nai rồi ùng ùng vụt chạy, thì riêng nghỉ cái tên Đồng - Nai không phải là không có nghị lực đặc biệt !” 


Thứ hai là trong mục Thỏ thẻ tâm tình / lời của Bộ Biên Tập/ Đồng Nai Văn Tập số 5 (không rõ năm xuất bản); có lời: “...Đồng Nai, tên sao nôm - na quê kịch mà sao thân thiết qúi yêu! Trên chỗ nước mặn đồng chua, âm thanh khêu gợi một chi chi thiêng liêng cao cả, như tiếng Rạch Gầm nhắc nhở chiến công của Quang trung, như tiếng Đồng tháp mở rộng cõi lòng về dĩ vãng kháng chiến hồi thế kỷ trước. Đồng - Nai, con sông lịch sử, con sông phì nhiêu, đã chở phù sa từ trên cao nguyên bồi thàng đồng ruộng và đã tiếp đón bao nhiêu lớp buồm cánh dơi từ ngoài biển vào: 

“ Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về!”. 

Đồng - Nai, con sông hiền lành, mở rộng lòng thương cho tất cả, không phân biệt thân sơ:

“Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng – Nai
Nước sông trong sao lại chảy hoài ? 
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.”.

Lòng người lắm khi hậu bạc không chừng, nhưng Đồng - Nai bao giờ cũng trung thành một mực:

“ Buồn tình cha chả buồn tình,
Không ai về Bắc cho mình gởi thơ !”.

Đồng - Nai đã phơi gan trải ruột qua nhiều thế hệ, trong ca dao như thế, biểu sao tên Đồng - Nai không được quý yêu, không được chọn lựa?

Chôn nhau cắt rún trong đất Đồng - Nai , chúng tôi coi Đồng - Nai là đất mẹ, là quê cha, là Tổ quốc, trong phạm vi eo hẹp của một cá nhân, nếu biệt lập với toàn thể của mình. Chúng tôi là con cháu của Đồng - Nai , đã lớn lên ở đây và sống bằng đất nước chua mặn...

...Vậy vốn là con cháu của Đồng - Nai chúng tôi lãnh lấy phận sự làm cho biết đấy nước nhau rún của mình một cách trung thành. Chúng tôi không phải là bọn người mở đầu, trước chúng tôi đã có nhiều bực tiền bối; chúng tôi tiếp tục một công trình đã khởi sự từ hồi chúa Nguyễn bôn ba vào Nam.

Từ thuở đó ông bà chúng tôi đã ra sức làm cho xứ Đồng - Nai được biết: Cụ Võ Trường Toản đã soạn bộ Nhứt - thống dư địa - chí , cụ Trịnh Hoài Đức đã soạn bộ Gia – Định thông chí, ngoài ra các cụ khác còn nhiều văn tập và thi tập, không làm hổ danh “ Gia Định tam gia” và đã làm nức tiếng đất Nam - Trung một thuở, mà đến nay còn lưu truyền câu tục - diêu:

“ Đồng Nai có bốn rồng vàng
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi...” 


***

Như vậy, trải qua bao biến thiên muôn màu của lịch sử, danh xưng Đồng Nai ngày nay đã trở thành tên gọi của đơn vị hành chánh cấp tỉnh: tỉnh Đồng Nai ở miền Đông Nam Bộ, trong lòng Nam Bộ, trong lòng nước Việt mến yêu.

Danh xưng của một vùng đất, của một dòng sông, của một Hào khí oai hùng, của một phức hệ văn hóa...hàm chứa cái thiêng, hàm ẩn một sức sống mãnh liệt trong sự tồn tại của nó với bao điều lý thú và chắc chắn còn nhiều điều cần tìm hiểu thêm, chưa có hồi kết. Sự lý thú và hấp dẫn về một danh xưng Đồng Nai vẫn còn là một vấn đề mở cho những ai quan tâm đến nó.
Ts Huỳnh Văn Tới
Ths Phan Đình Dũng