Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013

HAI NÀNG CÔNG CHÚA VÀ CUỘC MỞ MANG BỜ CÕI CỦA DÂN TỘC VIỆT


HAI NÀNG CÔNG CHÚA VÀ CUỘC MỞ MANG BỜ CÕI CỦA DÂN TỘC VIỆT

BS. Phan Giang Sang

Dẫn nhập
Trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam, nữ giới của mọi tầng lớp trong xã hội đã góp phần không nhỏ trong công cuộc đấu tranh sinh tồn, dựng nước và giữ nước. Nhìn lại lịch sử nước nhà có những anh thư liệt nữ đã đứng lên đấu tranh đánh đuổi xâm lăng dành lại nền độc lập cho dân tộc, được sử sách ghi công nhưng cũng có những bậc anh thư âm thầm đóng góp vào công cuộc mở rộng giang sơn bờ cõi.
Nếu nhắc đến công chúa Huyền Trân mở mang đất nước đến Châu Ô và Châu Lý (hai tỉnh Trị Thiên bây giờ), thì cũng phải nhắc đến công chúa Ngọc Vạn đã mang về cho tổ quốc hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa, góp phần tạo dựng nên vùng đất Nam Bộ của Việt Nam.
Huyền Trân Công Chúa và cuộc Nam Tiến
Sau khi dẹp hết quân Tàu xâm chiếm qua những trận lẫy lừng nhờ Hưng Đạo Vương đại phá quân Nguyên, nước ta được an lành. Sự giao hảo nước ta và Chiêm Thành cũng hòa thuận. Chỉ có nước Lào luôn kéo sang quấy phá rồi rút về núi rừng lẩn trốn, rất khó cho quân ta ngăn chặn, phải đợi tới danh Tướng Phạm Ngũ Lão dẹp họ mới yên.
Nhận thấy đất nước thanh bình an cư lập nghiệp, vua Nhân Tông nhường ngôi cho con, vào chùa Võ Lâm rồi sang chùa An Tử Sơn tu. Nhân chuyến du ngoạn bên Chiêm Thành (1301), Ngài lại hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm, lúc bấy giờ là Chế Mân. Vì Ngài muốn hai nước giao hảo, chung sống hòa bình, để rảnh tay dồn sức lực lo chống sự xâm lăng ở Bắc phương của quân Nguyên. Ít lâu sau (1304) vua Chiêm cho đem đồ sính lễ, triều thần phản đối, gây ra nhiều nghị luận, và khinh miệt người Chiêm, còn gọi là Chăm, là Hời.
Chế Mân đề nghị dâng Châu Ô và Châu Lý (1305) làm quà sính lễ. Vua Anh Tông và triều đình chấp nhận, và cho Chế Mân rước công chúa về nước vào tháng 6 năm Bính Ngọ1306.
"Nước non nghìn dậm ra đi, mối tình chi.
Mượn màu son phấn, đền nợ Ô-Ly,
Đắng cay vì đương đôi xuân thì
Số lao đao hay là nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết, quyết liều như hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn với chì,
Khúc ly tao cớ sao mà mường tượng nghê thường
Thấy chim hồng nhạn bay đi, tình tha thiết,
Bóng dương hoa quỳ
Nhắn một lời Mân quân, nay chuyện mà như nguyện.
Đặng vài phân vì lợi cho dân,
Tình đem lại mà cân.
Đắng cay trăm phần... "
Thân gái dậm trường làm sao không buồn, lòng dạ tan nát, nên đến đèo Hải Vân (1306), nàng có xin dừng kiệu, bùi ngùi ngắm nhìn sau lưng mình, phương Bắc, đất nước hùng vĩ của tổ tiên lần cuối... với nỗi niềm:
"Chiều chiều gió thổi Hải Vân,
Chim kêu ghềnh đá giẫm chân em buồn".
Vào năm sau 1307, vua Anh Tông đổi tên hai châu nầy là Thuận Châu và Hóa Châu. Bây giờ nó trở thành Thừa Thiên và Quảng Trị. Ngài còn cho Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị. Từ đây, bờ cõi nước ta từ từ mở rộng biên cương về phía nam, để tiếp tục cuộc Nam tiến sau nầy mà không tốn một cây tên và sinh mạng của quân dân hai bên. Đây là một thành công và là một thắng lợi to tát trong lịch sử Việt Nam, mà không dùng đao kiếm, gây cảnh nhà tan cửa nát, tàn sát sinh linh, nhân tâm đồ thán. Đây là bài học lịch sử mà hậu thế phải noi theo. Huyền Trân được phong làm hoàng hậu nước Chiêm. Được một năm sau Chế Mân băng hà.
Có người cho rằng vua Trần Anh Tôn sai tướng Trần Khắc Chung sang Chiêm Thành đại diện nhà vua đi phân ưu vua Chiêm băng hà, nhưng để lập mưu đưa nàng về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng, vì Huyền Trân là hoàng hậu theo tục lệ Chiêm Thành, nhưng theo Tiến sĩ (Ts) Po Dharma, gốc Chăm, hiện là đại diện cho trường Viễn Đông Bác Cổ tại Mã Lai, cho lối giải thích trên không đứng vững. Trong bài "Góp phần tìm hiểu Chiêm Thành' đăng trong đặc san Champaka số 1-1999, Ts Po Dharma cho rằng công chúa Huyền Trân chưa đủ điều kiện để được lên dàn hỏa thiêu theo vua Chiêm, vì theo truyền thống Chiêm Thành, chỉ có bà hoàng hậu chính thức mới được nhận vinh dự đó, mà Huyền Trân chưa phải hoàng hậu chính thức. (10)
Nếu như vậy thì có phải tướng Trần Khắc Chung ngang nhiên hành động không theo lịnh vua Trần Anh Tôn? Khi công chúa trở về, chính Thái Thượng Hoàng tiếp đón. Còn trăm quân hầu, vệ binh được gởi về Chiêm Thành và cáo lỗi về sự việc xẩy ra. Đây có phải là việc làm quá đáng, bất công, không có công bằng, đã gả đi rồi mà còn mưu toan cướp về. Đạo lý ta có cho phép không? Để giải đáp câu hỏi nầy, chúng ta đọc thơ vịnh công chúa Huyền Trân sau đây:
"Đổi chác xưa nay khéo nực cười,
Vốn đà chẳng mất lại thêm lời.
Hai Châu Ô lý vuông nghìn dậm,
Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi.
Lòng đỏ khen ai lo việc Nước,
Môi son phải giống mãi trên đời.
Châu đi rồi lại Châu về đó,
Ngớ ngẩn trông nhau mấy chú Hời." 

Hoàng Thái Xuyên


CÔNG CHÚA NGỌC VẠN
Vua Miên nhường đất và cho phép ngườiViệt khai khẩn đất đai, phá rừng để làm ruộng rẫy năm 1623 (7), để khỏi bỏ đất hoang vu không kiểm soát được, vì nhiều lần các nước Xiêm và Lào muốn chiếm đoạt mà Miên không có khả năng gìn giữ. Bắt đầu từ đây người Việt Nam hợp pháp đặt chân khai phá mảnh đất hoang vu đầy thú dữ Mô Xoài, gần Bà Rịa ngày nay để trồng trọt, cày cấy.
Theo André Migot và Christopho Borri, nhà truyền giáo Tây Phương, năm 1623, một phái bộ của Chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu cho lập sở thu thuế ở Prey Nokor tức Sài gòn để thu thuế người Việt và hàng hóa. Vua Chetta II chấp thuận. Lấy cớ là bảo vệ chánh quyền Chân Lập và giữ gìn an ninh trật tự, triều đình Thuận Hóa còn phái một tướng lãnh đến đóng ở Prey Nokor nữa. Chúa Nguyễn còn sai sứ giả đưa tàu lẫn binh lính, vũ khí giúp cho vua Chetta II để chống lại quân Xiêm. Khi sứ thần đến kinh đô thì dân chúng Chân Lập, thương nhân người Bồ Đào Nha, Nhật Bổn, Trung Hoa đã tụ tập đông đảo để tiếp đón và hoan nghinh.
Tại sao Vua Miên lại ưu đãi Việt Nam ta?
Nhìn lại cuộc Nam Tiến của Chúa Nguyễn, chúng ta mới thấy công chúa Ngọc Vạn đã góp công lao không nhỏ. Công chúa Ngọc Vạn là con của Chúa Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Vua Chân-Lạp (Căm-bốt) là Chey Chetta II muốn cầu thân với chúa Nguyễn, nhờ giúp đỡ để đối đầu với nước Xiêm. Nhân cơ hội nầy, năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân-Lạp Chey-Chetta II để liên minh, thắt chặt tình lân bang Việt-Chân Lạp.
Công chúa Ngọc Vạn không những là người tài sắc mà còn khôn khéo, dịu hiền, hết lòng làm tròn bổn phận người vợ hiền theo đúng nền văn hoá Khổng Mạnh. Công chúa ăn mặc, trang sức, theo phong tục và tập quán Miên, cùng nói ngôn ngữ và đọc, viết được chữ Miên nên được dân Miên thương mến , kính phục và được nhà vua yêu quí và sủng ái, phong làm Hoàng hậu , tức hoàng hậu Samdach (mặc dù vua Chetta II đã có hai bà Hoàng người Lào và Cam-bốt). Nhờ sự giúp đỡ của chúa Nguyễn nên hai lần quân Chân-Lạp chiến thắng quân Xiêm (Thái-Lan) vào năm 1621 và 1623. Sau đó, Vua Miên dời đô từ Lovet đến Oudong tức Nam Vang ngày nay, rồi xây đồn đấp lũy chống quân Xiêm. Năm 1622, triều đình Xiêm cho hai đội quân đánh Oudong đều thất bại. Triều đình Ayutthaya Xiêm cho chiến thuyền tấn công vẫn bị thảm bại, nhờ sự hỗ trợ của chúa Nguyễn. Từ đó tình thông gia lân bang càng khắng khít, vua Miên cũng dễ dãi cho dân ta qua lại làm ăn sinh sống.
Đất Miên bao lần bị Xiêm La tấn công quấy nhiểu chiếm đất, đều được Chúa Nguyễn đem quân tiếp viện. Để tỏ tình thông giao và lòng ái mộ công chúa và cám ơn chúa Nguyễn, vua Miên chấp thuận cho người Việt khẩn hoang vùng Đồng Nai và Mô Xoài. Hoàng hậu Samdach hạ sanh được hai hoàng tử, còn hai bà hoàng người Chân Lập và Lào cũng có con trai. Nhưng vì vua Chetta II qua đời đột ngột sau cơn bạo bịnh năm 1625, nên mọi quyền hành thuộc về phụ chính phó vương Prea Outney. Prea Outney lập hai người em họ lần lượt làm vua: Pona To (1625-1630) rồi Pona Nu (1630-1640). Hoàng-hậu Ngọc Vạn làm Hoàng Thái Hậu, được xếp cao hơn hai bà Hoàng người Lào và Cam-bốt.
Năm 1640, vua Pona Nu băng hà. Phó vuơng Prea Outney lập con mình lên ngôi, nhưng sau đó hai cha con phó vương Prey Outney bị nhóm thân Lào sát hại. Nhóm thân Lào đưa Rama Chan (Nặc Ông-Chân) là con trai của vua Chey Chetta II với bà hoàng người Lào lên ngôi vua năm 1642.
Nặc Ông-Chân chấp thuận lời yêu cầu của Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn, xin cho mẹ con bà cùng đoàn tùy tùng đến lập ấp ở vùng Mô Xoài, Đồng Nai (Bà Rịa, Biên Hòa) lập chùa tịnh tu. Về sau, vùng đất nầy trù phú, dân cư các nơi, kể cả người Việt, Lào, Cam-bôt kéo đến định cư lập nghiệp. Người Pháp, Bồ Đào Nha, Hòa Lan.. cũng đến buôn bán và truyền đạo. Nặc Ông-Chân cưới vợ người Mã Lai theo đạo Hồi. Vua lại muốn lấy Hồi giáo làm quốc giáo. Thế là có việc thanh trừng Phật giáo, nên xẩy ra thánh chiến.
Một số người trong hoàng tộc chống lại Nặc Ông-Chân, nhưng thất bại, nên chạy sang nhờ Hoàng Thái Hậu che chở. Thế là Nặc Ông-Chân tức giận, xua quân tấn công Biên Hòa và Bà Rịa. Bà kêu gọi cháu là chúa Hiền Vương đem quân cứu viện, dẹp loạn và bắt được Nặc Ông-Chân. Nặc Ông-Chan hiến đất, xin tha tội và hứa giữ đạo phiên thần, lo bề cống hiến, không xâm phạm dân sự ở ngoài biên cương.
Năm 1660 Nặc Ông-Chân (Rama Chan) qua đời, chúa Hiền phong cho Batom Reachea Potouna Raja (là con trai của Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn) làm vua nước Chân-Lạp. Người con thứ hai của Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn là Ang Non (Nặc Ông Nộn) được cho nhiều quyền hành vùng Đồng-Nai, Mô- Xoài (19). Quốc vương Batom Reachea Potouna Raja được chúa Nguyễn đưa lên làm vua, nên ký hoà ước nhận triều cống chúa Nguyễn, người Việt định cư trong lãnh thổ Chân Lạp được hưởng quyền lợi như người Chân Lạp, và được làm chủ phần đất khai hoang (20). Đến năm 1672, Vua Batom Reachea bị con rể soán ngôi giết chết. Hoàng tử Ang Chey, trưởng nam của Batom Reachea giết được phản đồ. Triều đình đưa Ang Chey lên kế vị, lấy hiệu là Nạc Ông Đài. Lúc nầy Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn đã qua đời.
Dưới thời Chetta II, chủ quyền khai thác vùng nầy không rõ ràng, nay Ponhea Chan và Batom Reachea minh thị xác nhận. Sử Cao Miên cũng ghi lại sự kiện nầy: Nhờ sự giúp đỡ của chúa Nguyễn, quốc vương Batom Reachea ký hòa ước nhận triều cống chúa Nguyễn hằng năm, cho người Việt Nam làm chủ phần đất vừa khai hoang và người Việt được định cư trong lãnh thổ Chân Lập, được hưởng quyền lợi ngang hàng với người Miên.
Như vậy, nhờ Công Chúa Ngọc Vạn mà Cao Miên mới khỏi nạn diệt vong, nước ta mới có phần đất mới khẩn nầy. Người Miên chạy về đây lánh nạn thánh chiến, ở luôn cùng người Việt phát triển làm ăn buôn bán. Từ đó vùng nầy trở nên sầm uất. Thấy vậy, Chúa Hiền phong cho người con thứ hai của Công chúa Ngọc Vạn là Ang Non làm Nhị Vương đóng đô ở Prey Nokor tức Sài gòn. Từ đây nước ta có chủ quyền ở Miền Nam nầy. Đây không phải là xâm chiếm hay cướp đất, mà là một thỏa thuận tương giao, nương tựa để khai khẩn rừng rú hoang dã, chống bịnh tật và thú dữ, để sống còn trong thanh bình của hai nước lân bang. Đến năm 1698 Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh (Kim) mới chính thức lập chủ quyền và đặt nền tảng hành chánh tại phủ Gia Định. Năm 1674, Nặc Ông-Đài nghe theo xúi giục của nhóm thân Xiêm và Lào, đem quân đến vùng Đồng-Nai, Mô-Xoài đánh đuổi chú ruột là Nặc Ông-Nộn (Ang Non). Nặc Ông-Nộn cầu viện chúa Nguyễn. Chúa Hiền-Vương cho quân sang đánh Nặc Ông Đài. Nặc Ông Đài thua chạy và bị đồng bọn giết chết. Em là Nặc Ông-Thu (Ang Saur) được đưa lên làm đệ nhứt quốc vương, hiệu là Chetta IV, nắm quyền ở Lục-Chân-Lạp,và Nặc Ông Nộn (Ang Non) làm đệ nhị quốc vương nắm quyền hành ở Thủy-Chân-Lạp, đóng đô ở Prey Nokor (vùng Gia-định Bến-Nghé hay Sài-Gòn). Năm 1688, Nặc Ông-Thu chống lại không thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn đem quân tiến đánh, bắt vua Chân Lạp phải thần phục và triều cống. Năm 1732, vua Chân Lạp nhường vùng Mỹ Tho và Vĩnh Long cho chúa Nguyễn. Năm 1739, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên đánh chiếm Hà Tiên, bị chúa Võ Vương sai Nguyễn Cư Trinh đánh dẹp, Nặc Nguyên cầu hòa và dâng đất Gò Công, Tân An. Nghe lời xàm tấu của kẻ xấu, Nặc Nguyên liên kết với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh phá Miền Nam năm 1756. Thống Suất Nguyễn Cửu Vân vâng lịnh chúa ta đem quân dẹp êm quân Miên. Năm sau 1757, Ông ta qua đời, người chú là Nặc-Nhuận muốn lên ngôi nên tự ý dâng hai xứ Preah Trapeang và Bassac, tức Trà Vinh-Ba Thác- Sóc Trăng, để xin cầu phong. Nặc Nhuận lại bị con rể Nặc Hinh giết chết và soán ngôi. Con Nặc Nguyên là Nặc Tôn bèn chạy sang Hà Tiên cầu cứu Mạc Thiên Tứ. Chúa Võ Vương chấp nhận cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp, đoạn cho Nguyễn Cư Trinh, Mạc Thiên Tứ hộ tống Nặc Tôn dẹp Nặc Hinh. Để tri ân, Nặc Tôn xin hiến dâng vùng Tầm Long Phong, giữa sông Tiền và sông Hậu. Vùng đất nầy không gì khác hơn là Châu Đốc, Tân Châu, Kiến Phong, Sa-Đéc và Vĩnh Long. Vì nhờ Mạc Thiên Tứ giúp đỡ, nên vua Chân Lập cũng cắt nhượng dâng cho họ Mạc 5 phủ: Kompong Som Hương Úc, Kompt Cần Bột, Chưng rum Trực Sâm, Cheal Meas Sài Mạc và Linh Quynh. Họ Mạc lại dâng cho chúa Nguyễn. Đến năm 1847, vua Thiệu Trị giao trả phần nầy lại cho Cam Bốt. Chúa cũng giao vùng đất Hà Tiên cho Mạc Thiên Tứ cai quản. Vùng nầy được chia thành 2 đạo: Kiên Giang đạo và Long Xuyên đạo (Long Xuyên ở đây không phải là tỉnh Long Xuyên ngày nay, mà là vùng Cà Mau)
Kêt luận
Công chúa Huyền Trân vì lợi ích dân tộc mà vâng lời vua cha về làm vợ vua Chiêm để lấy hai châu Ô Lý, mở thêm bờ cõi về phương Nam.
Công chúaNgọc Vạn đã đem về cho quốc gia dân tộc một dãy giang san gấm vóc trù phú được mệnh danh là vựa lúa miền nam. Nếu không có bà và các tiền nhân vô danh hy sinh phấn đấu khắc phục thiên nhiên, khai khẩn rừng rậm hoang vu, đầy thú dữ, thì chúng ta không có mảnh đất thân thương sông nước Nam Kỳ Lục Tỉnh hôm nay.
Tài liệu tham khảo :
  1. Huynh Minh, Tây Ninh Xưa và Nay, 1972.
  2. Lãng Nhân. Công Nương Ngọc Vạn và Công Nương Ngọc Khoa, Làng Văn trang 25-28.
  3. Lê Quang Hiền. Di Chỉ Giòng Nỗi Bến Tre, TS ĐN & CL số 1, 3/2007, tr 29.
  4. Mường Giang, Champa, Chiêm Thành tự làm vong quốc. Văn Nghệ 17/08/06 Sydney.
  5. Nam Sơn Trần Văn Chi, 300 năm Văn Minh Miệt Vườn. Việt Luận 4/12/07, tr 28
  6. Ngô Kim Khôi: Huyền Trân và Công Chúa Vương Quốc Chiêm Thàmh, Chiêu Dương18/12/04 tr 54...
  7. Nguyên Văn Khậy, Kampuchea Trong Bối Cảnh Chiến Tranh Đông Dương, 2003
  8. Nguyễn Viết Kế: Kể chuyện các nhà vua đời Nguyễn, NXB Đà Nẵng, 2006.
  9. Phạm Thế Định: Chung quanh nhân vật lịch sử: Huyền Trân Công Chúa. Việt Luận số 1033 (Tues. Oct. 17, 1997)
  10. Phan An: Người Hoa ở Nam Bộ, NXB Khoa Học Xã Hội 2000
  11. Phan Giang Sang: Tuyển Tập PGS 1, 2007 tái bản 2007
  12. Phan Lạc Phúc: Huyền Trân Lịch sử, TB Việt Luận ngày 25/3/05, số1975 tr 50-51
  13. Thái Văn Kiểm: Đất Việt Trời Nam.
  14. Thi Long: Nhà Nguyễn Chín Chúa mười ba Vua, NXB Đà Nẵng, 2005
  15. Thi Long: Truyện kể về các Vương Phi, Hoàng Hậu nhà Nguyễn, NXB Đà Nẵng, 2006.
  16. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược tr 19, 167, Đại Nam XB 1971
  17. Trương Đình Tin: Vua Chúa Việt Nam qua các triều đại, NXB Đà Nẵng.
  18. Vĩnh Long Đia Linh Nhân Kiệt, Hội Đồng Hương Vĩnh Long Ấn hành, 2006.
  19. Võ Sĩ Khải: Văn Hóa Đồng Bằng Nam Bộ, NXB KHXH, 2002

Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp – đôi điều suy ngẫm

Cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn với quốc vương Chân Lạp – đôi điều suy ngẫm

* TS. Trần Thuận
Trường ĐHKHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh
Trên thế giới, việc mở mang bờ cõi của các quốc gia đã diễn ra với nhiều phương thức khác nhau. Trong đó, việc phát động chiến tranh xâm lược, thôn tính đất đai của nước khác, mở rộng cương vực lãnh thổ nước mình, xem ra là con đường phổ biến nhất. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhiều vị vua chúa bên cạnh việc tăng cường bảo vệ biên cương lãnh thổ, còn có ý thức mở mang bở cõi, cương vực quốc gia. Tuy nhiên, khác với nhiều quốc gia trên thế giới, các triều đại phong kiến nước ta không bằng con đường chiến tranh xâm lược mà bằng nhiều biện pháp hòa bình để tiến hành mở cõi.

Quá trình mở đất về phương Nam của dân tộc ta như một dòng chảy, trải qua các chặng đường và hoàn tất vào thời các chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII – XVIII. Các chúa Nguyễn đã “phóng ngòi bút” của mình, kẽ thêm mấy đường nét vào tấm bản đồ để Việt Nam có một hình cong chữ S cân đối và duyên dáng như hôm nay. Công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn bắt đầu từ thời Nguyễn Phước Nguyên đến những năm 70 của thế kỷ XVIII bằng nhiều phương cách. Trong đó có sự góp phần của cuộc nhân duyên giữa công nữ Ngọc Vạn (con gái chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên) với quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II.
Nguyễn Phước Nguyên, vị chúa thứ hai trong chín đời chúa Nguyễn, thường được gọi là Chúa Sãi hay Sãi vương. Ông có mười một công tử và năm công nữ. Trưởng nữ Ngọc Liên gả cho Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh vào năm 1629, công nữ Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Thành Pô Romê vào năm 1631, công nữ Ngọc Đãnh gả cho Phó tướng Nguyễn Cữu Kiều vào năm 1623, công nữ Ngọc Vạn gả cho quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620 và công nữ Ngọc Hoa gả cho người Nhật[1].
Chuyện công nữ Ngọc Vạn làm dâu Chân Lạp cũng như vai trò của bà trong việc khai khẩn vùng đất Gia Định – Đồng Nai, tạo điều kiện để chúa Nguyễn thu nhận vùng đất này về với Đại Việt đã không được sử nhà Nguyễn đề cập đến. Phan Khoang có lời bàn chí lý rằng, “Việc này, sử ta không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan niệm như vậy thì không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở nước ta thì chính sách ấy đã đem lại nhiều lợi ích quan trọng. Đời nhà Lý, thường đem công chúa gả cho các tù trưởng các bộ lạc thượng du Bắc Việt, các bộ lạc ấy là những giống dân rất khó kiềm chế. Nhờ đó mà các vùng ấy được yên ổn, dân Thượng không xuống cướp phá dân ta, triều đình thu được thuế má, cống phẩm; đất đai ấy, nhân dân ấy lại là một rào giậu kiên cố ở biên giới Hoa Việt để bảo vệ cho miền Trung châu và kinh đô Thăng long. Đến đời Trần, chính đôi má hồng của ả Huyền Trân đã cho chúng ta hai châu Ô, Lý để làm bàn đạp mà tiến vào đến Bình Thuận.
Sử ta không chép, nhưng theo các sách sử Cao Miên do các nhà học giả Pháp biên soạn, mà họ lấy sử liệu Cao Miên để biên soạn, thì quả Chey Chetta II năm 1620 có cưới một công nữ con chúa Nguyễn. Giáo sĩ Borri, ở Đàng Trong trong thời gian ấy cũng có nói đến cuộc hôn nhân này[2].
Cũng như các vị quốc vương tiền nhiệm, trước khi được phong vương kế vị vua cha, Chey Chetta II phải sang Xiêm làm con tin một thời gian. Chey Chetta II vốn là người thông minh, có tính quyết đoán, nên sau khi lên ngôi (1619), ông đã cho thay đổi những gì do người Xiêm quy định để ràng buộc Chân Lạp. Ông cho dời đô về Oudong (Long Úc) thuộc tỉnh Kompong Luông. Người Xiêm đã hai lần mang quân sang chinh phạt nhưng đều bị đẩy lùi.
Trước tình hình đó, để tìm một chỗ dựa chính trị - quân sự cho sự tồn tại của vương triều, tránh được sự quấy rối của Xiêm, năm 1620, Chey Chetta II xin cưới công nữ Ngọc Vạn, con gái chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Cuộc hôn nhân này đánh dấu một bước phát triển trong quan hệ giữa hai nước Việt – Chân Lạp. Dựa vào sử biên niên Chân Lạp và ký sự của các nhà truyền đạo phương Tây, Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong đã kể lại sự việc này một cách ngắn gọn nhưng dễ hiểu: “Vua Chân Lạp Chey chetta II muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Xiêm La nguy hiểm kia, đã xin cưới một công nữ của chúa Nguyễn, làm hoàng hậu, trông mong được sự ủng hộ của triều đình Thuận Hóa, và chúa Hy Tông có mưu đồ xa xôi, năm 1620, đã gả con gái cho vua Chân Lạp. Cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận mệnh Chân Lạp sau này. Bà hoàng hậu đem nhiều người Việt đến, có người được giữ chức hệ trọng trong triều, bà lại lập một xưởng thợ và mở nhiều nhà buôn bán gần kinh đô. Năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong, yêu cầu được lập sở thuế ở Prey Nokor, tức Sài Gòn ngày nay, và đặt ở đây một sở thu thuế hàng hóa. Vua Chey Chetta II chấp thuận, và triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến đây làm ăn, rồi lấy cớ giúp chánh quyền Chân Lạp giữ gìn trật tự, còn phái một tướng lãnh đến đóng ở Prey Nokor nữa. Khi Chey Chetta mất, vùng đất từ Prey Nokor trở ra Bắc đến biên giới Chiêm Thành, tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay đã có nhiều người Việt đến ở, và khai thác đất đai”[3].
Năm 1628, Chey Chetta II băng hà, chính trường Chân Lạp biến động dữ dội vì việc tranh đoạt ngôi vua. Con của Chey Chetta II và Ngọc Vạn là Chau Ponhea To lên kế vị vua cha, chú là Préah Outey làm Phụ chính. Chau Ponhea To làm vua chỉ mới hai năm thì bị chú là Préah Outey giết chết (1630). Sau đó con thứ hai của Chey Chetta II lên ngôi với vương hiệu là Ponhea Nu (1630 – 1640). Năm 1640, Ponhea Nu đột ngột băng hà, Phụ chính Préah Outey liền đưa con mình lên ngôi tức quốc vương Ang Non I (1640 – 1642). Ang Non I cũng chỉ làm vua được hai năm thì bị người con thứ ba của Chey Chetta II là Chau Ponhea Chan (mẹ người Lào) dựa vào một số người Chăm và người Mã Lai, giết chết cả Préah Outey và Ang Non I để giành lại ngôi vua. Đó là ông vua mà sử ta thường gọi là Nặc Ông Chân (1642 – 1659). Nặc Ông Chân cưới một cô gái người Mã Lai làm hoàng hậu và theo đạo Hồi làm cho tình hình càng trở nên phức tạp.
Năm 1658, con của Préah Outey là So và Ang Tan dấy binh chống lại Ông Chân nhưng thất bại, hai người này tìm đến nương náu với bà Ngọc Vạn[4]. Ngọc Vạn vốn là người hiền lành và có Phật tính nhưng cũng lấy làm bất bình với việc con ghẻ mình lấy vợ người Mã Lai và theo Hồi giáo nên khuyên So và Ang Tan cầu cứu chúa Nguyễn, nhờ chúa Nguyễn can thiệp. Chúa Nguyễn nhận lời giúp và sai Phó tướng dinh Trấn Biên (dinh Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến dẫn 3000 quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ là Mỗi Xuy, tức Bà Rịa), phá được thành rồi tiến vào bắt Nặc Ông Chân bỏ vào cũi đem về Quảng Bình nạp cho chúa Nguyễn.
Năm sau (1659), Nặc Ông Chân chết, chúa Nguyễn phong cho So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom Reachea (1660-1672). Từ đó, lưu dân Việt đến Gia Định, Mỗi Xuy (Bà Rịa), Biên Hòa ngày càng đông. Ban đầu người Việt sống xen lẫn với người Khmer, khai khẩn đất đai lập ruộng vườn sinh sống, nhưng do không cùng văn hóa, nên dần dần người Khmer lánh đi nơi khác, không tranh giành, ngăn trở.
Năm 1672, quốc vương Batom Reachea bị một người vừa là rể vừa là cháu là Chey Chetta III giết, em là Ang Tan chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó Chey Chetta III cũng bị người của Chan giết. Ang Chei (1673-1674) con trai đầu của vua Batom Reachea, sử ta gọi là Nặc Ông Đài lên ngôi. Ông Đài cho đắp thành lũy ở địa đầu Mỗi Xuy, nhờ Xiêm cứu viện để chống lại chúa Nguyễn. Quân chúa Nguyễn phản công đánh bại, Nặc Ông Đài chạy trốn vào rừng và bị đồng đảng giết chết. Ang Tan cũng bệnh chết, giao binh quyền cho Ang Non, tức Nặc Nộn, đóng ở Oudong. Em Ông Đài là Ang Saur, sử ta gọi là Nặc Thu đánh đuổi quân đội Đại Việt và Nặc Nộn chạy sang Sài Côn. Nặc Thu lên ngôi vua hiệu là Chey Chetta IV, được chúa Nguyễn phong vương, còn Nặc Nộn được chúa Nguyễn phong là Obareach mà sử ta gọi là Nhị vương.
Nặc Nộn đóng ở Sài Côn, tìm cách giành lại ngôi vua. Trong thời gian này cả Chính vương Nặc Thu và Đệ nhị vương Nặc Nộn đều tỏ ra cung thuận với chúa Nguyễn. Khi chúa băng hà, cả hai đều đến viếng tang.
Hầu như trong việc giải quyết các sự biến cung đình ở Chân Lạp (từ khi Ngọc Vạn về làm dâu trong hoàng tộc cho đến lúc bà qua đời), bà Ngọc Vạn luôn đóng vai trò quan trọng. Và, kết quả mang lại thường có lợi cho cả hai phía: hoàng gia Chân Lạp và Đại Việt – Đàng Trong.
Như đã nói trên, cuộc hôn nhân này mặc dầu không được sử nhà Nguyễn ghi chép vì một lý do nào đó. Song, xét đến cùng thì đây là một cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, nó đáp ứng nhu cầu cho cả hai phía. Chân Lạp cần có sự “bảo hộ” của chúa Nguyễn để tránh khỏi sự tấn công tiêu diệt của vương quốc Xiêm. Chúa Nguyễn cần có chỗ đứng ở phía Nam, đẩy mạnh sự khai phá của lưu dân Việt trên mảnh đất khô cằn và thấp trũng mà từ lâu người Chân Lạp vẫn bỏ hoang, đồng thời tạo nên sự ổn định mặt phía Nam để rảnh tay lo đương đầu với thế lực Trịnh ở phía Bắc.
Ngọc Vạn, rõ ràng là một chiếc cầu nối trong quan hệ Việt – Miên ở thế kỷ XVII. Với trí thông minh và đức nhân từ làm nên vị thế của bà trong triều đình Chân Lạp, bà đã trở thành điểm khởi đầu tạo cơ sở pháp lý cho vùng đất Gia Định – Đồng Nai về với Đại Việt một cách đàng hoàng chứ không bằng một hình thức tranh đoạt nào cả.
Có ý kiến cho rằng, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên gả con gái cho vua Chân Lạp là để thực hiện ý đồ bành trướng thế lực về phía Nam? Lập luận này không có sức thuyết phục. Bởi lẽ, cuộc hôn nhân giữa Chey Chetta II với công nữ Ngọc Vạn là do vua Chân Lạp chủ động đề xướng nhằm tạo cho mình sự an toàn về chính trị. Và khi được chúa Nguyễn nhận lời, quốc vương Chân Lạp đã thực sự vui mừng và toại nguyện, bằng chứng là Ngọc Vạn được quốc vương Chân Lạp sủng ái lập làm “Đệ nhất Hoàng hậu” Ang Cuv và ban cho tước hiệu Somdach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattrey[5], đồng thời xây dựng riêng cho bà một cung điện mới nguy nga tráng lệ (mặc dù trước đó, Chey Chetta II đã có ít nhất là hai bà vợ, một người Chân Lạp, một người Lào). Song, cũng không thể phủ nhận tư duy mở nước của Sãi vương đã có từ trước đó. Việc quốc vương Chân Lạp cầu hôn công nữ Ngọc Vạn đã điểm ngay vào “huyệt đạo” của Sãi vương. Và, khi hay tin này, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên không cần phải cân nhắc gì thêm, vì đây là cơ hội!
Nếu như đầu thế kỷ XIV, khi sang thăm đất nước Chiêm Thành, Thượng hoàng Trần Nhân Tông chủ động đặt vấn đề gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân, lúc bấy giờ mục tiêu trước tiên là cốt tạo một quan hệ láng giềng thân thiện, ổn định biên giới phía Nam, tập trung công sức để xây dựng đất nước sau ba lần kháng chiến chống Mông – Nguyên và cũng để chuẩn bị đối phó với phương Bắc mà nguy cơ chưa phải là đã hết. Còn việc mở nước, có lẽ cũng chưa định hình được thành quả một cách cụ thể nếu Chế Mân không tự nguyện dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ. Chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên đã hình dung khá cụ thể cho công cuộc mở nước trong tư duy của mình. Có lẽ, ông đã nhìn thấy cả vùng đất Nam Bộ ngày nay – Thủy Chân Lạp lúc bấy giờ, một vùng đất đang tồn tại trong tình trạng “bị bỏ rơi”, với viễn cảnh là một vùng đất đai trù phú qua bàn tay của lưu dân Việt – những cư dân nông nghiệp lúa nước cần cù, sáng tạo.
Cuộc nhân duyên Ngọc Vạn – Chey Chetta II tuy đã khiến vương quốc Chân Lạp có chút thiệt thòi (mất đi vùng đất Thủy Chân Lạp lấy từ vương quốc Phù Nam – vùng đất chẳng mặn mà gì đối với các quốc vương cũng như nhân dân Chân Lạp lúc bấy giờ), nhưng ngược lại, chính cuộc hôn nhân này đã đem lại nhiều điều tốt đẹp. Trước hết, Ngọc Vạn – người con gái xinh đẹp nết na, với tài năng và đức độ của bà đã cảm hóa được nhiều người từ trong hoàng tộc đến ngoài muôn dân, góp phần tạo nên sự yên bình cho đất nước Chân Lạp, chí ít cũng được vài thập kỷ từ năm 1620 cho đến khi con trai bà là quốc vương Ponhea Nu qua đời. Bà đã giúp chồng giải quyết những khó khăn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước Chân Lạp phát triển; góp phần giải quyết những xung đột trong hoàng tộc cho dù chồng đã mất từ lâu. Và điều quan trọng bậc nhất là sự có mặt của bà trong triều đình Chân Lạp đã tạo nên mối quan hệ Chân Lạp – Đàng Trong tốt đẹp và thân thiện, giúp cho đất nước này thoát khỏi họa xâm lăng của người Xiêm láng giềng phía Tây cứ đeo đẳng mãi, để rồi từng bước Chân Lạp vươn lên củng cố nền độc lập của mình.
Có thể nói rằng, với tầm nhìn chiến lược của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, đã giúp cho Nguyễn Hoàng có được sự khởi đầu thuận lợi và với “Di ngôn chính trị” của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên đã tiếp tục dấn thân để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”. Sự dấn thân trong sự nghiệp của mình, Sãi vương đã được ái nữ Ngọc Vạn chia sẻ và đồng hành với một đức hy sinh cao cả.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từng có những người phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu,… góp phần giành giữ nền độc lập cho Tổ quốc, và cũng từng có những người phụ nữ lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, Ngọc Vạn,…. Chính họ là những con người làm nên lịch sử. Đáng kính thay!

Nguồn:   http://www.phatgiaobaclieu.com


[1] Sách Đại Nam Liệt truyện Tiền Biên mục Công Chúa có chép rằng, chúa Hy Tông (tức Sãi vương) có bốn người con gái, hai nàng Ngọc Liên và Ngọc Đãnh có chép rõ sự tích chồng con, còn hai nàng Ngọc Vạn và Ngọc Khoa thì chép là “khuyết truyện”, nghĩa là không rõ tiểu truyện,tức không biết chuyện chồng con thế nào. Trường hợp nàng Ngọc Hoa chỉ được nói đến trong Việt sử giai thoại của Đào Trinh Nhất. Các tài liệu của Nhật khẳng định công nữ Ngọc Khoa được chúa Sãi gả cho một thương gia Nhật, chủ một thương điếm ở Hội An tên là Araki Shutaro, tên Việt là Nguyễn Taro, hiệu là Hiển Hùng; còn công nữ Ngọc Vạn là vợ Chetta II. Có lẽ có sự nhầm lẫn giữa tên Ngọc Hoa và Ngọc Khoa chăng? Riêng Ngọc Vạn thì đã là chắc chắn. Nguyễn Phúc Vinh nguyên là con trưởng của Mạc Cảnh Huống, được mang quốc tính, sau đổi thành Nguyễn Hữu.
[2] Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, 2001, tr.309.
[3] Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, 2001, tr.310.
[4] Bấy giờ, trước những biến động trong triều, bà Ngọc Vạn đã lui về sống ở vùng Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay. Bà lập chùa để tu và cùng bà con người Việt khai khẩn vùng đất này để sinh sống. Dân chúng ở vùng đất này kể cả người Việt, Khmer, Chăm rất kính mến và gọi bà với cái tên than mật là Cô Chín, còn người nước ngoài đến đây buôn bán là truyền đạo cũng mến mộ bà và gọi bà với tên “Cô Chín Chine” (Cô Chín Tàu).
[5] Jean Moura, Le Royaume du Cambodge, Paris, 1883, tập II, tr. 57.

Những công chúa có công trong việc mở mang bờ cõi nước Việt

Những công chúa có công trong việc mở mang bờ cõi nước ViệtBửu Diên Hoàng Oanh



Công Chúa Huyền Trân - Hoàng Hậu Chiêm Thành

Năm Quí Tị (1293) vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho vua Trần Anh Tông, rồi về làm Thái Thượng Hoàng.

Vua Trần Anh Tông là một vị vua có hiếu và thông minh, được nhiều bậc hiền tài ra giúp vua trị nước như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn.

Lúc bấy giờ vua thì hiền, tôi trung, phép nước nghiêm minh, việc học hành mở mang, thật là một thời thịnh vượng về đời Trần.

Năm Tân Sửu (1301), Thượng Hoàng Trần Nhân Tông sang du ngoạn nước Chiêm Thành, có hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Vua Chiêm sai Chế Bồ Đài và hơn một trăm người đem vàng bạc, hương quý vật lạ sang nước ta xin cầu hôn.

Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Chế Mân xin dâng hai châu Ô, và châu Lý làm sính lễ. Vua Anh Tông bèn quyết định gả em gái là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân. Khi về Chiêm Thành, Huyền Trân công chúa được phong Hoàng hậu. Sang năm sau (1307), vua Trần Anh Tông nhận châu Ô và châu Lý, đổi tên lại thành Thuận Châu, Hóa Châu rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt quan cai trị.

Huyền Trân công chúa lấy Chế Mân chưa được một năm thì Chế Mân mất, các hậu phải hỏa thiêu chết theo. Được tin ấy, vua Trần Anh Tông bèn sai Nhập Nội Hành Khiển Thượng Thư Tả Bộc Xạ Trần Khắc Chung và An Phủ Sứ Đặng Văn sang Chiêm Thành tìm cách cứu công chúa Huyền Trân về. Tháng 8 năm Mậu Thân (1308) công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành trở về.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Đinh Mùi năm thứ 15 (1307) (Nguyên Đại Đức năm thứ 11). Mùa Xuân tháng Giêng. Đổi hai châu Ô Lý làm Châu Thuận và Châu Hóa, sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân. Trước là vua Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật cưới, người các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Hồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của Triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về”.

Có nhiều người không đồng ý việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành nên trong dân gian đã có những câu hát ví von:

Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán thằng Mường nó leo

Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục, lại vần than rơm.

Tiếc thay hạt gạo tám xoan, thổi nồi đồng điếu lại chan tương cà.

Sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng bàn:

“Ngày xưa Hán Cao Hoàng vì nước Hung Nô thường quấy phá biên giới mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê. Song có ý muốn nghỉ binh, yên dân thì còn có thể nói được... Còn như Nhân Tông đem con gái gả cho vua nước Chiêm Thành là nghĩa gì? Nói rằng nhân khi đi chơi mà trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không làm việc đổi mệnh có được không? Vua giữ ngôi Trời mà Thượng Hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả em cho người xa, không phải giống nòi cho đúng lời hẹn trước...”

Nhưng trong bài vịnh Huyền Trân công chúa của Thái Xuyên thì chúng ta lại thấy tác giả khen:

Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn đà không mất lại thêm lời.
Hai châu Ô, Lý vuông nghìn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi?
Lòng đỏ khen ai lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời?
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn trông nhau mấy đứa Hời!

Như vậy về đời nhà Trần nhờ gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành màø chúng ta đã mở mang thêm được hai châu: Thuận Hóa và Hóa Châu. Về sau cũng có nàng công chúa bước theo con đường của công chúa Huyền Trân, góp công trong việc mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam đó là hoàng hậu Somdach (hoàng hậu Cao Miên), một nàng công chúa xinh đẹp của triều Nguyễn.

Công chúa Ngọc Vạn - Hoàng Hậu Cao Miên

Trong lịch sử Việt Nam không thấy nói đến hoàng hậu Somdach nên chúng ta phải tìm kiếm tài liệu liên quan đến lịch sử Cao Miên.

Thời bấy giờ quân Xiêm thường hay xâm lấn Cao Miên nên vua Chey Chattha II xin cưới một người con gái của chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) làm hoàng hậu để được chúa Nguyễn ủng hộ. Bà hoàng hậu rất xinh đẹp và có nhiều đức tính tốt, được vua Cao Miên cưng quý vô cùng. Bà đã góp nhiều ý kiến hữu ích vào công việc trị nước của vua Chey Chettha II. Nhờ ảnh hưởng của hoàng hậu mà vua Cao Miên không phản đối khi bà xin cho nhiều người Việt Nam vào giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình Cao Miên cũng như cho nhiều người Việt Nam lập hãng xưởng và buôn bán gần kinh đô.

Hồi đó chúa Nguyễn thường giúp quân Cao Miên chống lại những cuộc xâm lăng của quân Xiêm.

Năm 1623, chúa Nguyễn cử một sứ bộ, đem theo nhiều tặng phẩm, tới Oudong để tỏ tình thân hữu và bảo đảm sự ủng hộ của triều đình Huế. Phái đoàn yêu cầu cho dân Việt Nam đến lập nghiệp và xin lập một đồn thuế. Nhờ sự can thiệp của hoàng hậu Somadach, vua Chey Chettha II chấp thuận cho lập đồn thuế tại Prey Kôr để thu thuế những người Việt Nam buôn bán tại Cao Miên.

Chúa Nguyễn khuyến khích người Việt di cư đến để làm ăn. Vì vậy trong một thời gian ngắn người Việt đến định cư rất đông.

Từ năm 1628 (là năm vua Chey Chettha II mất) trở đi, người Việt Nam đến lập nghiệp ở các vùng Gia Định, Bà Rịa, Biên Hòa ngày càng thêm đông. Người Miên vì không muốn sống chung với người khác văn hóa và mạnh hơn nên hễ người Việt đến sống gần họ thì họ dần kiếm cách lánh đi nơi khác.

Đã có nhiều tác giả đề cập đến hoàng hậu Somadach.

- G. Maspéro viết trong cuốn “L’ Empire Khmer”:

“Vị vua mới lên ngôi là Chey Thettha II cho xây một cung điện tại Oudong, ở đây ông làm lễ thành hôn với một công chúa con vua An Nam. Bà này rất xinh đẹp, về sau có ảnh hưởng lớn đến vua. Nhờ bà mà một phái đoàn An Nam đã xin và được vua Chey Thettha II cho lập thương điếm ở miền nam Cao Miên, nơi này nay gọi là Sài Gòn.”

- Ông Moura viết trong cuốn “Royaume du Cambodge”:

“Tháng 3 năm 1618, Prea Chey Chessda được phong vương với tước hiệu Somdach Prea Chey Chessda Thiréach Réaméa Thupphdey Barommonpit. Lúc đó vua An Nam gả một người con gái cho vua Cao Miên. Công chúa này rất đẹp, được nhà vua yêu mến và lập làm hoàng hậu tước hiệu Somdach Prea Preaccac Vodey Prea Voreac Khsattey”.

- Theo ông Henri Russier, tác giả cuốn “Histoire sommaire du Royaume de Cambodge”:

“Chúa Nguyễn lúc bấy giờ rất vui mừng thấy Cao Miên muốn giao hảo bèn gả công chúa cho vua Cao Miên. Công chúa xinh đẹp và được vua Miên yêu quý vô cùng...

Năm 1623, sứ bộ Việt từ Huế đến Oudong yết kiến vua Cao Miên, dâng ngọc ngà châu báu, xin người Việt được khai khẩn và lập nghiệp tại miền Nam.

Hoàng hậu xin chồng chấp thuận và cua Chey Chetta đã đồng ý...”

- A. Dauphin Meunier viết trong cuốn “Le Cambodge”:

“Năm 1623, Chey Chettha, người đã cưới công chúa Việt Nam, được triều đình Huế giúp đỡ để chống lại quân Xiêm... Một sứ bộ Việt Nam đã tới bảo đảm với Chey Chetta về sự ủng hộ của triều đình Huế. Sứ bộ xin phép cho dân Việt Nam tới lập nghiệp Việt Nam tới lập nghiệp ở các tỉnh phía Đông Nam Vương Quốc. Vua Cao Miên cho phép lập một phòng thu thuế tại Prey Kôr để tài trợ việc định cư”.

- Trong cuốn “Histoire des Pays de L’union Indochinoise” của ông Nguyễn Văn Quế có đoạn:

“Chey Chettha II dời đô từ Lovéa Em đếu Oudong năm 1620 và cưới công chúa Việt Nam được phong làm hoàng hậu và rất được yêu quý nhớ đức hạnh và vẻ đẹp mỹ miều.

Vì đã giúp đỡ cho vua Cao Miên chống lại những cuộc xâm lăng của Xiêm nên chúa Sãi mới xin vua Cao Miên cho phép những người Việt di cư vào Nam được khai khẩn đất đai, trồng trọt, buôn bán và trả thuế ở Sài Gòn, Biên Hòa và Bà Rịa. Vua Cao Miên chấp thuận đề nghị của nhạc phụ”.

- Ông Phan Khoang, tác giả cuốn “Xứ Đàng Trong”, nơi phần “Chúa Nguyễn gây ảnh hưởng trên đất Chân Lạp” có viết:

“Từ thế kỷ XVII đã có nhiều người Việt Nam đến hai xứ Đồng Nai và Mỗi Xuy của Chân Lạp tức Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay, để vỡ đất làm ruộng. Vua Chân Lạp Chey Chetta II muốn tìm một đối lực để chống lại lân bang Xiêm La nguy hiểm kia, đã xin cưới một công nữ con chúa Nguyễn làm hoàng hậu, trông mong sự ủng hộ của triều đình Thuận Hóa và chúa Hy Tông (chúa Sãi) có mưu đồ xa xôi, năm 1620, đã gả cho vua Chân Lạp một công nữ. Cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận mạng Chân Lạp sau này. Bà hoàng hậu đem nhiều người Việt đến, có người được giữ chức hệ trọng trong triều, bà lại lập một xưởng thợ và nhiều nhà buôn gần kinh đô”.

Đến năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prey Kôr tức Sài Gòn ngày nay và được ở đấy một sở thu thuế hàng hóa. Vua Chey Chetta chấp thuận và triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến đấy làm ăn rồi lấy cớ để giúp chính quyền Miền gìn giữa trật tự, còn phải một tướng lãnh đến đóng ở Prey Kôr nữa. Khi Chey Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra bắc đến biên giới Chiêm Thành tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay, đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai”.

- Giáo sĩ người Ý tên Christopho Borri ở Qui Nhơn đã nhìn thấy viện binh từ đàng Trong đi Cao Miên, ghi lại trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1631:

“Chúa Nguyễn luôn luyện tập binh sĩ và gởi quân đội giúp vua Cao Miên, tức chàng rể chồng của con chúa. Chúa viện trợ cho vua Cao Miên thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm”.

Chúng ta thử tìm hiểu Hoàng hậu Somdach là ai?

Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, tức chúa Sãi, sinh năm 1563, mất năm 1635, hưởng thọ 72 tuổi, lên kế nghiệp chúa được 22 năm từ năm 1613 đến năm 1635. Ông là con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng và là người đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Chúa Sãi rất khôn khéo, biết xử dụng nhân tài giúp nước như: Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến.

Chúa Nguyễn Phúc Nguyên có 11 người con trai và 4 người con gái.

Trong mục công chúa của “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên” có ghi “Chúa Sãi có bốn người con gái.

1. Công chúa Ngọc Liên, lấy Trấn biên doanh trấn thủ phó tướng Nguyễn Phúc Vĩnh. Vĩnh là con trưởng Mạc Cảnh Huống.

2. Công chúa Ngọc Vạn, không có truyện.

3. Công chúa Ngọc Khoa, không có truyện.

4. Công chúa Ngọc Đĩnh lấy phó tướng Nguyễu Cửu Kiều. Năm Giáp Tỵ (1684 Lê Chính Hòa năm thứ 5), mùa đông, Ngọc Đĩnh Mất.”

Trong “Généalogie des Nguyễn avant Gia Long” (Phổ hệ nhà Nguyễn trước Gia Long) của Tôn Thất Hân và Bùi Thanh Vân (Bulletin des Amis de vieux Huế, năm 1920) có đoạn:

1. Ngọc Liên, con gái trưởng của Sãi vương, vợ của Nguyễn Phước Vĩnh là con trai Mạc Cảnh Huống.

2. Ngọc Đĩnh, con gái út của Sãi vương, vợ của Nguyễn Cửu Kiều, bà mất năm 1684.

3. Ngọc Khoa con gái thứ của Sãi vương, không để lại dấu tích.

4. Ngọc Vạn con gái thứ của Sãi vương, không có dấu tích gì về Ngọc Vạn”

Như vậy, căn cứ vào các tài liệu nói trên ta có thể biết được bà hoàng hậu Somdach là một trong hai người con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên: Ngọc Vạn hoặc Ngọc Khoa.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử thì hai công chúa này, một người lấy vua Chiêm Thành và một người lấy vua Cao Miên.

Công Chúa Ngọc Khoa

Sau đây là một vài tài liệu nói đến vua Chiêm Thành Po Romé (1627 - 1651) có cưới người vợ Việt Nam:

- Trong bài ca Chiêm Thành Ni Danak Po Romé có câu: “Vua Po Romé có ba vợ: hai người giống da sậm và một người Việt Nam, cả ba người đều ghen nhau, cãi vã ồn ào trong cung điện nhà vuạ”

- Trong “Cổ Tích Chiêm Thành Po Romé có ghi: “Po Romé sinh được một công chúa gả cho ông hoàng Phik Cheek. Ông hoàng này kết tình bang giao với Việt Nam. Do biết tính háu sắc của Po Romé, vua ở Huế bèn chọn công chúa đẹp nhất rồi giả làm người đi buôn vào đất Chiêm Thành. Danh tiếng cô nàng xinh đẹp đến tai Po Romé. Vua cho vời đến, vừa trông thấy mặt nàng là say mê, rước về làm vợ, tức là nàng Bia Út, hoàng hậu Út”.

Tác giả Hoàng Trọng Miên, trong cuốn “Việt Nam Văn Học Toàn Thư” cho rằng người đàn bà lấy vua Chiêm Thành Po Romé là nàng Ngọc Khoa.

Theo học giả Thái Văn Kiểm trong cuốn “Đất Việt Trời Nam” thì công chúa Ngọc Khoa đã lấy vua Chiêm Thành Po Romé.

Do đó ta có thể suy đoán rằng hoàng hậu Somdach là công chúa Ngọc Vạn con của chúa Nguyễn Phúc Nguyên.

Để ca ngợi công ơn của hai công chúa Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Á Nam Trần Tuấn Khải có làm bài thơ sau:

Cảm Vịnh Hai Bà Ngọc Vạn Ngọc Khoa

Hồng Lạc ta đâu hiếm nữ tài
Nghìn xưa Trưng Triệu đã từng oai
Noi gương Khoa, Vạn, hai công chúa
Một sớm ra đi mở đất đai

Mối tình hữu nghị Việt Chiêm Miên
Thần xỉ mong sao được vững bền;
Chúa Sãi bao năm nhờ diệu kế,
Giữ miền Nam Á đặng bình yên.

Đời vốn quen dùng sức lửa binh,
Gây nhiều thảm họa khổ sinh linh.
Riêng đây ngọc lụa thay gươm giáo,
Trăm họ âu ca hưởng thái bình.

Cũng vì hạnh phúc của muôn nhân
Vì nước, vì nhà, xá quản thân.
Lá ngọc cành vàng coi nhẹ bổng,
Hiếu trung cho trọn đủ mười phân.

Những tiếc riêng cho phận nữ hài,
Đem thân giúp há nhường trai.
Vắng trang lịch sử, nào ai biết?
Người đã hy sinh vị giống nòi.

Tới nay kể đã mấy tinh sương
Mượn bút quan hoài để biểu dương:
Bà Rịa, Phan Rang ngàn vạn dặm,
Công người rạng rỡ chốn quê hương.

Ngày nay chúng ta sống trên đất nước Việt Nam thân yêu, rộng lớn, miền Nam là nơi “làm chơi ăn thiệt”, “đất rộng, sông dài”, ruộng đồng “cò bay thẳng cánh”, thiết tưởng cũng nên nhắc đến công chúa Huyền Trân, công chúa Ngọc Khoa và công chúa Ngọc Vạn để tưởng nhớ và tri ân các công chúa đã có công lớn trong việc thắt chặt tình giao hảo với các lâng bang cũng như trong công cuộc mở mang bờ cõi của dân tộc Việt Nam.

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị

455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị 

QT Xuân) - Năm nay là tròn 455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị (1558-2013), 400 năm Nguyễn Hoàng từ giã cõi đời (1613-2013), để lại những công tích to lớn mãi vang danh. Nhân dịp này, UBND huyện Triệu Phong đã đề nghị UBND tỉnh cho tổ chức nghiên cứu thời kỳ Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệp, mở đầu tại Ái Tử, Triệu Phong. UBND tỉnh đã có Công văn số 3012/UBND-VX ngày 24/9/2012 “đồng ý chủ trương để UBND huyện Triệu Phong tổ chức nghiên cứu về thời kỳ Nguyễn Hoàng vào Nam từ năm 1558. UBND huyện Triệu Phong làm việc với Sở Khoa học và Công nghệ để đưa vào chương trình nghiên cứu khoa học cấp tỉnh”. 
Tượng Nguyễn Ư Dĩ (ở thôn Trà Liên, Triệu Giang, Triệu Phong), người giúp sức cho Nguyễn Hoàng dựng nên nghiệp lớn - Ảnh: N.H
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại. Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại cần phải học mãi để làm giàu vốn liếng tích lũy và trải nghiệm từ quá khứ nhằm tạo nguồn lực vững tiến tới tương lai. Nghiên cứu về Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị, thiết nghĩ là nằm trong mục đích đó. Trong cuộc đời thăng trầm lạ lùng của mình, trải 55 năm làm trấn thủ Thuận Hóa (từ năm 1558) và sau đó kiêm luôn trấn thủ Quảng Nam (từ năm 1570), dựng nên nghiệp lớn, Nguyễn Hoàng đã để lại cho đời những bài học và kinh nghiệm thành công nào? 

Bài học đầu tiên là biết nuôi chí lớn và truyền chí lại. Nguồn hun đúc nên chí lớn chính là truyền thống gia đình, dòng tộc. Nguyễn Hoàng xuất thân từ một gia đình danh giá ở Thanh Hóa. Thân phụ Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, người có công khôi phục nhà Lê. Khi xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim đã tránh sang Lào, xây dựng lực lượng, nuôi chí khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim đã đem quân về nước, đánh thắng quân Mạc nhiều trận. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm được người con trai nhỏ của vua Lê Chiêu Tông, tên là Ninh đang sang Lào tránh nạn, tôn lên làm vua, tức là vua Lê Trang Tông. Lúc Nguyễn Kim tránh sang Lào, Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi, được cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng. Lúc Nguyễn Hoàng 20 tuổi, Nguyễn Ư Dĩ thường khuyên Nguyễn Hoàng lập công danh sự nghiệp. Nguyễn Hoàng đã làm cho lời khuyên đó trở thành sự thật. Lúc sắp từ giã cõi đời, Nguyễn Hoàng đã gọi Nguyễn Phúc Nguyên, người con thứ sáu và các cận thần đến bên giường bệnh để trao truyền ý chí: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”, “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng”. Quyết chí nối nghiệp Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tiếp tục mở mang lãnh thổ về phía Nam, xác lập vững chắc chủ quyền trên vùng đất mới, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đưa nước ta cơ bản có lãnh thổ hoàn chỉnh như hiện nay. 

Bài học cốt tử nữa, đó là biết vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc. Cổ nhân bảo “trong họa có phúc”, điều này quả đã ứng vận trọn vẹn vào cuộc đời Nguyễn Hoàng. Mối họa của cuộc đời Nguyễn Hoàng không nằm ở đâu xa mà nằm ngay trong chính tâm địa ông anh rể của Nguyễn Hoàng là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm đã hãm hại Nguyễn Uông, người anh cả của Nguyễn Hoàng. Trịnh Kiểm thấy Nguyễn Hoàng có quân công với nhà Lê nên càng ghét và muốn mưu hại. Nguyễn Ư Dĩ biết chuyện, bèn khuyên Nguyễn Hoàng giả bị bệnh điên, có những cử chỉ thất thường để Trịnh Kiểm hết nghi ngờ. Sau khi cho người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về cách tránh họa và được Trạng Trình “mách nước”: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dải núi ngang, có thể dung thân muôn đời), Nguyễn Hoàng đã tìm được lối thoát họa, đó là phải lánh mình ở phương xa. Được Nguyễn Ư Dĩ bàn bạc: “Thuận Hóa là đất hiểm trở kiên cố, có thể giữ mình được. Vậy nên nhờ chị là Ngọc Bảo (Ngọc Bảo là con gái Triệu tổ, và là chánh phi Trịnh Kiểm - Triệu tổ, tức là Nguyễn Kim - chú thích của người viết) nói với Kiểm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa, rồi sau sẽ mưu làm việc lớn” (Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập I, quyển 1-6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 76), Nguyễn Hoàng đã cậy chị ngỏ lời cùng Trịnh Kiểm, xin cho đi vào phương xa. Thuận theo lời xin của vợ, Trịnh Kiểm đã dâng biểu tâu vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ đất Thuận Hóa. Nhân việc cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, Trịnh Kiểm muốn bắn một mũi tên mà trúng nhiều đích: vừa được lòng vợ và em vợ; vừa được tiếng với vua Lê là dùng người tài trí, mưu lược trấn giữ nơi vùng đất có “hình thể quan trọng”; lại vừa mượn xứ Thuận Hóa là nơi lam chướng nước độc, nơi quân nhà Mạc đang khuấy động để biết đâu trừ khử được Nguyễn Hoàng. Nhưng Trịnh Kiểm đã lầm với một người có chí lớn và biết chuyển họa thành phúc như Nguyễn Hoàng. “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ. Nhưng ông đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ, ông lại đã cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc. Và một chuỗi các sự kiện diễn ra đã làm thay đổi toàn bộ lịch sử Việt Nam nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung” (Li Tana, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 15).
 
Đường qua thị trấn Ái Tử hôm nay - Ảnh:P.V

Bài học nữa là để trụ vững ở nơi hiểm trở, nếm mật nằm gai, đó là biết dựa vào lòng dân. Sử sách đã chép khá nhiều chuyện Nguyễn Hoàng được lòng dân, được dân ủng hộ, xưng tụng là Chúa Tiên. Lúc Nguyễn Hoàng mới vào đến bãi cát Ái Tử (theo R.P.Cadière, Nguyễn Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10/11 đến 10/12/1558), người dân ở đây đã đem dâng 7 chum nước trong. Nguyễn Ư Dĩ mừng rỡ nói: “Đấy là phúc trời cho đó. Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa thượng mới đến mà dân đem “nước” dâng lên, có lẽ là điềm “được nước” đó chăng?” (theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, tập I, quyển 1-6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 76). Nhờ có chính sách vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng của Nguyễn Hoàng, bộ mặt vùng đất hiểm trở mà Nguyễn Hoàng trấn nhậm, chỉ sau hơn 10 năm đã có nhiều thay đổi rõ rệt. Đánh giá về hơn 10 năm dựng xây nghiệp lớn của Nguyễn Hoàng, nhà bác học Lê Quý Đôn viết: “Đoan quận công có uy lược. xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tin phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp” (Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 50). Quốc sử quán triều Nguyễn viết: “Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp” (Đại Nam thực lục, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 31). Với tầm nhìn xa của người mở cõi, năm 1597, Nguyễn Hoàng (lúc này đang ở đất Bắc giúp vua Lê ứng phó với quân Mạc và bang giao với nhà Minh) đã có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định) chiêu tập lưu dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên, đồng thời căn dặn không được sách nhiễu dân: “Kết lập gia cư địa phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho tới khi thành thục sẽ nạp thuế như lệ thường. Nhược bằng vì việc mà nhiễu dân, điều tra ra sẽ bị xử tội” (về sau, sau khi cho quân đánh dẹp Chiêm Thành xâm lấn biên giới, năm 1611, Nguyễn Hoàng bắt đầu đặt phủ Phú Yên). 

Nắm được lòng dân và dân đã thuận theo mình, để đưa Đàng Trong phát triển, bài học và kinh nghiệm thành công, kinh nghiệm phát triển của Nguyễn Hoàng, đó là mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển. Dưới thời Nguyễn Hoàng, “thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” (Đại Nam thực lục, tập I, sách đã dẫn, tr. 31). Để chủ động “xúc tiến thương mại”, khuyến khích thương gia Nhật Bản đến buôn bán với Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện buôn bán với chính quyền Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản), có những thư được gửi kèm theo các món quà tặng là những vật phẩm quý như kỳ nam, lôi mộc, khổng tước… Đặc biệt, Nguyễn Hoàng đã nhận một thương gia Nhật Bản là ông Hunamoto Yabeije làm con nuôi và viết thư báo cho phía Nhật Bản biết về mối giao hảo tốt đẹp này. Theo một nguồn mà nhà nghiên cứu Li Tana đã dẫn cho biết, số thuyền Châu ấn của Nhật Bản đến buôn bán với Đàng Trong từ năm 1609 đến 1635 là 70 chiếc. Việc đẩy mạnh ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển của chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã làm cho Đàng Trong hưng thịnh và chính sự hưng thịnh này đã góp phần quyết định tạo nên trọn vẹn dáng hình chữ S của Tổ quốc Việt Nam như ngày nay. 

Nhằm xác lập nhận thức mới về thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn, năm 2008, Hội Khoa Lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thanh Hoá đã phối hợp tổ chức thành công hội thảo khoa học có quy mô lớn về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Năm 2010, UBND tỉnh Quảng Bình đã tổ chức lễ kỷ niệm 310 năm ngày mất của Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, tổ chức chương trình cầu truyền hình trực tiếp “Người đi mở cõi” diễn ra tại 4 điểm cầu ở Quảng Bình, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai nhằm tôn vinh công đức Nguyễn Hữu Cảnh, người có công khai phá, mở mang bờ cõi cho đất nước. Và năm 2013, tròn 455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị và 400 năm Nguyễn Hoàng từ giã cõi đời, các hoạt động hội thảo và kỷ niệm về Nguyễn Hoàng phải được tổ chức quy mô, xứng tầm trên đất Quảng Trị, mảnh đất phát tích nên nhiều nghiệp lớn cho đất nước, trong đó có nghiệp lớn của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. 

                                                                NGUYỄN HOÀN - Báo Quảng Trị

Phục dựng một mảng lịch sử


Phục dựng một mảng lịch sử
Với cuốn Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700, TS Sử học trẻ Hoàng Anh Tuấn là một trong số không nhiều những người Việt Nam nghiên cứu khoa học xã hội có công trình xuất bản tại nước ngoài. Công trình của TS Tuấn cũng cho thấy một xu thế nghiên cứu lịch sử giai đoạn hiện nay: hợp tác quốc tế để khai thác các nguồn sử liệu nước ngoài viết về nước ta để "lấp đầy những khoảng trống lịch sử" chưa được nghiên cứu.
Phát thiện một liên minh quân sự xưa
Nhận thấy mối lợi của tơ lụa Đàng Ngoài, năm 1637 thương đoàn của Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) do thương nhân Carel Hartsink dẫn đầu đã đến Kẻ Chợ để tìm cách đặt thương điếm buôn bán. Ngay khi đến cửa sông Đàng Ngoài, Hartsink đã được viên quan cho biết chúa Trịnh Tráng đang chờ họ đến và sẽ rất hài lòng về sự có mặt của người Hà Lan. Ông được Chúa tiếp kiến, được đồng ý cho buôn bán tự do, thậm chí được Chúa nhận làm con nuôi với tên gọi Heyn-tuong và tước phẩm Hoàng tử cùng với áo mũ, cờ hiệu để có thể ngược sông lên Kẻ Chợ mỗi khi đến Đàng Ngoài. Ngay cả người Hà Lan cũng phải ngạc nhiên với thái độ cởi mở của chúa Đàng Ngoài. Đoàn thương nhân Hà Lan đến Kẻ Chợ ngày 12/4/1637 thì chỉ 3 ngày sau họ đã được triệu vào cung. Trong việc thiết lập quan hệ thương mại, người Hà Lan hầu như không cần phải nỗ lực gì để được Chúa cho buôn bán tự do, mặc dù gặp không ít trở ngại từ đội ngũ quan lại...
 
Thư của Chúa Trịnh Căn gửi Toàn quyền Hà Lan  Willem van Outhoorn  tại Batavia (Jakarta). Nguồn: Nationaal Archief, VOC 1623, fos. 15-16.
Không giống những hình dung "thông thường" về sự bảo thủ, thận trọng của triều đình phong kiến Việt Nam xưa với người châu Âu, trong thế kỷ XVII, triều đình Lê/Trịnh ở Đàng Ngoài cũng như họ Nguyễn tại Đàng Trong có thái độ tương đối cởi mở với ngoại thương và thương nhân ngoại quốc. Họ chủ động quan hệ với người Âu để thu mua vũ khí, bạc và các sản vật lạ trong khi thương nhân nước ngoài cần tơ lụa, gốm sứ, quế, xạ hương... của Đàng Ngoài để tiến hành buôn bán với các quốc gia phương Đông (nhất là với Nhật Bản). Cuốn sách Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637 - 1700 (Lụa đổi bạc: Mối quan hệ Hà Lan-Việt Nam, 1637-1700) do nhà xuất bản danh tiếng Brill sắp ấn hành tại Hà Lan của TS Sử học trẻ Hoàng Anh Tuấn phục dựng nội dung quan hệ thương mại và bang giao VOC-Đàng Ngoài trong gần  thập niên buôn bán (1637-1700) và tác động của nó đến kinh tế và xã hội miền bắc nước ta thế kỷ XVII.
Để hoàn thành cuốn sách 326 trang, trong 5 năm (2002-2006) Hoàng Anh Tuấn đã "lướt qua" khoảng 1 vạn trang tư liệu VOC về Đàng Ngoài trong tổng số khoảng 5 triệu trang tư liệu VOC nói chung hiện đang lưu trữ tại Lưu trữ Quốc gia Hà Lan ở thành phố La Haye. Anh cũng đến khảo sát các kho lưu trữ tư liệu VOC tại Jakarta (Indonesia), Cape Town (Nam Phi), đặc biệt là khoảng 1 nghìn trang tư liệu của Công ty Đông Ấn Anh (EIC) về Đàng Ngoài tại Thư viện Quốc gia Anh ở Luân Đôn. Những văn bản trong các kho tư liệu kể trên rất đa dạng về thể loại: từ sổ sách kinh doanh, nhật ký buôn bán của các thương điếm đến các loại thư từ ngoại giao qua lại giữa các Công ty với chính quyền Lê/Trịnh, nhật ký riêng của các cá nhân... Chúng phản ánh muôn mặt của xã hội phong kiến Đàng Ngoài thời kỳ này, từ kinh tế, chính trị, bang giao đến các khía cạnh văn hóa, khoa cử, phong tục, tôn giáo..." Loại giấy viết mà VOC và EIC sử dụng là những loại giấy đặc biệt, được đặt sản xuất riêng cho Công ty nên thường dày và chất lượng cao hơn nhiều so với các loại giấy thong thường, nhằm đảm bảo độ an toàn khi đi biển dài ngày. Sau khoảng 400 năm mà giấy vẫn bền, chỉ hơi giòn hơn mà thôi" - TS Hoàng Anh Tuấn kể.
Cũng từ khối tài liệu VOC đồ sộ đó TS Tuấn đã làm rõ lịch sử của một liên minh quân sự giữa Chúa Trịnh với người Hà Lan tuy thời gian tồn tại của liên minh này chỉ tồn tại không đến nửa thập kỷ do sự thận trọng của cả hai bên dẫn đến những bất đồng trong kế hoạch hợp binh. Tuy vậy, quan hệ thương mại và bang giao giữa triều đình Đàng Ngoài với VOC tồn tại đến tận cuối thế kỷ XVII, dù trải qua không ít thăng trầm.

"Mở lối" cho các nhà sử học trẻ
Nói về những nghiên cứu và cuốn sách của mình, Hoàng Anh Tuấn khẳng định rằng đó không phải là một công trình “khai sơn phá thạch” mà là “lấp đầy” những khoảng trống mà những nhà nghiên cứu lịch sử thế hệ trước để lại. Đây có lẽ là xu thế mới của các nhà nghiên cứu lịch sử trẻ: Họ không còn “đào sâu” vào những chủ đề quen thuộc như chiến tranh vệ quốc, khởi nghĩa nông dân hay biên niên sử – những chủ đề đã được nghiên cứu hết sức chuyên sâu của nhiều lớp “đại thụ”. Thay vào đó, họ chủ trương đi vào tìm hiểu những khía cạnh lịch sử cụ thể như kinh tế, thương mại, văn hóa, bang giao, công nghệ... thông qua việc khai thác các nguồn sử liệu nước ngoài viết về Việt Nam, tham khảo các nghiên cứu nước ngoài, và đặc biệt là xu thế nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong bối cảnh lịch sử khu vực và thế giới cùng thời kỳ, coi lịch sử Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của diễn trình lịch sử thế giới.
GS Sử học Phạm Xanh cũng cho rằng nhiệm vụ của các nhà sử học trẻ hiện nay là “khám phá” và “khoả lấp” những “khoảng trống trong nhận thức lịch sử”. Theo ông, giai đoạn vừa qua, những nhà sử học đi trước đã để lại những khoảng trống “do vô tình hoặc cố ý” với những quy mô to nhỏ khác nhau trong các công trình nghiên cứu của mình. Nguyên nhân trước hết của khoảng trống này, trước hết là do ý thức hệ. Các nhà nghiên cứu sử học thế hệ trước đã chỉ quá nhấn mạnh tới tội ác, tiêu cực của triều đình phong kiến, người Pháp, Mỹ mà lại viết quá sơ sài về các giá trị kinh tế, văn hóa để lại. Đặc biệt, các nhà sử học thế hệ trước đã “lãng quên” hoặc đánh giá phiến diện một loạt nhân vật lịch sử, trên chừng mực nào đó đã có những đóng góp tích cực vào lịch sử dân tộc như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô, Nguyễn Sơn... Nếu chỉ dừng lại như trước đây, họ sẽ phải gánh chịu “bi kịch muôn đời”. Nhưng GS Phạm Xanh cho rằng, đây chính là thời kỳ mà “sử học đang mở lối” cho các nhà sử học trẻ "khỏa lấp" khoảng trống đó...
Một nguyên nhân khiến nền sử học Việt Nam thời gian qua còn có những khoảng trống, theo GS Phạm Xanh, là do thiếu tài liệu. Do khí hậu Việt Nam nóng ẩm, lại kinh qua nhiều cuộc chiến tranh giữ nước, nên nhiều nguồn tài liệu chữ viết, sử liệu vật thật bị huỷ hoại, bị đánh cắp, được sưu tập, hoặc được lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ quốc gia ở Trung Quốc, Pháp, Mỹ... Rõ ràng là lịch sử Việt Nam còn đầy bất ngờ tiềm ẩn đằng sau những cánh cửa lưu trữ ngoại quốc đó. Việc khai thác kho tư liệu khổng lồ của Công ty Đông Ấn Hà Lan (và Anh) để nghiên cứu lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII của TS Hoàng Anh Tuấn chính là một ví dụ cho những mảnh đất màu mỡ mà các nhà sử học trẻ Việt Nam có thể “thâm canh” trong những năm tới.

Việt Anh -  tạp Chí Tia Sáng

Cuộc Chiến Thương Mại Của Chính Quyền Chúa Nguyễn


Cuộc Chiến Thương Mại Của Chính Quyền Chúa Nguyễn qua "Đại Nam thực lục tiền biên"

Nguyễn Lục Gia

[Tóm tắt: Cùng với tiến trình chinh phục xuống phía Nam về mặt lãnh thổ, chính quyền chúa Nguyễn đã không ngừng khai thông, củng cố và mở rộng tuyến đường thương mại nội địa lẫn ven bờ biển Đông. Một cuộc chiến thương mại giữa chính quyền chúa Nguyễn với các thế lực lái buôn khu vực và phương Tây diễn ra thực sự quyết liệt ngay từ đầu dưới nhiều hình thức, kéo dài từ cửa Việt đến trấn Hà Tiên, trải rộng từ đất liền ra hải đảo, mà dai dẳng nhất là các trở lực Hoa thương. Nếu như giặc Hiển Quý, Ô Lan, Man An Liệt có tính chất nhất thời thì những loạn A Ban, Linh Vương - Quảng Phú, Lai – Lăng, Lý Văn Quang, Hoắc Nhiên, Trần Thái... trở nên vấn nạn cáo cấp thường trực. Lợi ích kinh tế cũng sống còn sánh bằng chính trị, thậm chí vượt lên trên chính trị trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử vương quyền Việt Nam].
    
Trong suốt 200 năm kiến lập và phát triển xứ Đàng Trong, chính quyền chúa Nguyễn đã định hướng cho mình đường lối hướng biển theo gương vương quốc Champa, đồng thời phát huy phương thức khai thác và quản lý nông nghiệp với một tư duy thực sự khai mở. Nhờ vậy, Đàng Trong đã bứt phá vượt lên, không những đủ sức đương đầu với Đàng Ngoài của họ Trịnh mà còn đẩy nhanh tiến trình chinh phục xuống phía Nam trong xu thế mở rộng ảnh hưởng ra ngoài của thế giới và khu vực. Trong một giới hạn nào đó, chính quyền chúa Nguyễn đã theo kịp thời đại và hội nhập thành công.

Để giành lấy thế mạnh thương trường, chính quyền chúa Nguyễn đã liên tục dẹp bỏ các trở lực thương mại trong phạm vi quốc gia lẫn khu vực, quốc tế. Tiến trình này di chuyển theo hướng từ Bắc xuống Nam cùng với cuộc chiến tranh xác lập chính thể, mở rộng đất đai của vương triều họ Nguyễn từ lúc Nguyễn Hoàng đặt chân lên đất Thuận Quảng đến trước nội chiến thời Tây Sơn.
           
Vụ Hiển Quý tặc tại cửa Việt (1585).

“Ất Dậu... bấy giờ có tướng giặc nước Tây Dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù trưởng Phiên, không phải tên người) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiến thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy (...) Từ đó giặc biển im hơi” [1].
           
Theo quan sát của GS. Shigeru Ikuta, mặc dù năm 1565 nhà Minh đã phải bãi bỏ lệnh hải cấm, song lại “không cho phép các tàu Nhật được đến cảng của mình. Do đó việc buôn bán được tiến hành bởi người Bồ Đào Nha hoặc bởi những kẻ giang hồ ngoài khơi”, “bao gồm dân đi biển đủ mọi nguồn gốc và thường được gọi là hải tặc Nhật, những kẻ trú ngụ trên những hòn đảo ngoài biển Đông Trung Hoa” [2]. Do vậy, tuy mang tiếng “hải tặc”, phần lớn họ là những đội thương thuyền đóng vai trò buôn bán trung gian giữa Nhật với Trung Hoa trong vùng biển Đông Nam Á. Nhưng đó là người Bồ Đào Nha, tức Tây Dương hay người Nhật?
           
TS. Li Tana khẳng định bất ngờ: tên cướp biển Shirahama Kenki, người Nhật đầu tiên được nhắc đến trong Tiền Biên đã bị lầm là người phương Tây thì lạ lùng thay, 16 năm sau, cái tên Hiển Quý lại xuất hiện trong một bức thư Nguyễn Hoàng gửi cho vị tướng quân Tokugawa thứ nhất, Ieyasu, vào năm 1601. Bức thư giải thích rằng do không biết Hiển Quý là một thương gia của chính quyền Tokugawa phái tới nên quan quân đã đánh đắm thuyền ở cảng Thuận An, nay cho hộ tống về nước. Trong thư phúc đáp, Tokugawa nói rõ Hiển Quý không phải là đặc phái viên của ông ta: “Những con người độc ác ấy đã phạm tội giết người đáng bị dân tộc quý ngài trừng phạt. Lòng quảng đại của quý ngài đối với các thuỷ thủ ấy đáng được chúng tôi ghi lòng tạc dạ một cách sâu sắc”, kèm thêm một thông cáo: “Trong tương lai, các tàu thuyền từ xứ chúng tôi tới thăm xứ của Ngài phải được chứng nhận bởi con mộc đóng trên bức thư này và tàu thuyền nào không có con mộc sẽ bị coi là bất hợp pháp” [3]. Đó chính là chế độ Shuin Jo, thời kỳ Châu ấn thuyền nổi tiếng trong lịch sử hải thương nước Nhật (1592-1635) mà Đàng Trong liên tục duy trì và mở rộng suốt 3 thập niên từ năm 1604 đến 1635.

Vụ Ô Lan tặc tại cửa Eo (1644).

“Bấy giờ giặc Ô Lan [Hà Lan] đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa [Phúc Lan] đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử [Phúc Tần] tức thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thuỷ quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc thúc chiến thuyền của mình tiến thẳng ra (...) Chiến thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía Đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế tử bèn thu quân về...” [1].

Diễn biến trên được sử gia Lê Quý Đôn xác định xảy ra năm Quý Mùi (1643) và tóm lược: “con thứ hai (Phúc Lan) là Phúc Tần đem thuỷ quân đánh phá được mười chiếc tàu của giặc Ô Lan ở cửa Eo. Phúc Lan khen là dũng, bèn có ý dựng làm con nối nghiệp” [4].
           
Thực ra biến cố ở cửa Eo (Thuận An) là điểm nút của một chuỗi dài các tác nhân trong quan hệ giao thương giữa chính quyền chúa Nguyễn với Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) suốt từ năm 1613, có sự can dự của họ Trịnh Đàng Ngoài. Các chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan một mặt mở cửa mời gọi thương thuyền Hà Lan từ Batavia đến buôn bán, mặt khác tịch thu không hoàn trả hàng hoá và đại bác trục vớt từ các tàu bị đắm của VOC. Ngược lại, VOC vừa quan hệ với Đàng Trong, vừa ngầm giúp chính quyền Đàng Ngoài, thậm chí còn tổ chức nhiều vụ bắt giết thường dân ven biển dọc phủ Hoài Nhơn đến Đà Nẵng làm áp lực đòi trao trả hàng hoá và thuỷ thủ với chính quyền chúa Nguyễn [5]. Cuối cùng, VOC đã công khai đứng về phía Đàng Ngoài chống lại Đàng Trong bằng hành động quân sự.     
           
Đoàn chiến thuyền của Hà Lan xuất phát từ Batavia chia làm hai cánh: cánh thứ nhất gồm 3 chiến thuyền có tên Wakendebode, Kievit, Meerman do Isaac Davids chỉ huy thẳng hướng ra Đàng Ngoài để đón và đi với chúa Trịnh Tráng, vua Lê cùng một binh đoàn 100.000 quân; cánh thứ hai cũng 3 tàu, có tên Wojdenes, Waterhond, Vos do Baek chỉ huy trực chỉ hướng Thuận An. Đoàn chiến thuyền quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Tần chỉ huy lập tức tổ chức vây đánh đội tàu do Baet dẫn đầu, khiến chúng hoảng loạn bỏ chạy. Trong tình thế cấp bách, đối phương đành tự phóng lửa đốt cháy chiếc tàu tiên phong do chính Baet chỉ huy, giải vây cho hạm đội trong tiếng súng rền vang lẫn lửa khói mù trời [6].
           
Tám năm sau, năm 1651 VOC chủ động dàn hoà và được chính chúa Nguyễn Phúc Tần đứng ra ký kết thương ước. Tuy nhiên, phải hơn một thế kỷ sau, năm 1754 các nhà buôn Hà Lan mới đặt chân trở lại xứ Đàng Trong.  
           

Vụ Hoàng Tiến tạo phản ở Đông Phố (1688 – 1689).
           
“Tháng 6, phó tướng Long Môn Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng hổ oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn, dời đồn sang Nan Khê (nay thuộc huyện Kiến Hoà, tỉnh Định Tường), thủ hiểm đắp luỹ, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc” [1]. Nhân đó phiên thần Chân Lạp cũng bỏ việc triều cống, âm mưu đắp chiến luỹ cố thủ.
           
Mười năm về trước, năm 1679 binh tướng bại trận nhà Minh không chịu thần phục Thanh triều đã kéo vào Đàng Trong xin nhận làm thần dân chúa Nguyễn, được phát lệnh khai khẩn xứ Đông Phố - Đồng Nai. “Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà minh hoá Hán [phong hoá văn minh] thấm dần khắp miền Đông Phố” [1].
           
Nhằm độc chiếm cả một trung tâm thương mại sầm uất vừa mới trỗi dậy này, Hoàng Tiến đã sát hại chủ tướng rất mực trung thành với chúa Nguyễn, xâm lấn và cướp bóc Chân Lạp, mưu phản triều đình. Lợi ích buôn bán và kinh tế nông nghiệp khai thác trên vùng đất mới đem lại nguồn của cải dồi dào cho chính quyền của Chúa, vì vậy trừng phạt Chân Lạp không nạp cống chỉ là cái cớ, tiêu diệt Hoàng Tiến mới đích thị lý do, cho dù chiếu lệnh vẫn ghi “đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm tiên phong, dưới quyền tiết chế của Vạn Long” [1]. Diễn biến cuộc thảo phạt mùa xuân năm Kỷ Tỵ (1689) cho thấy Thống binh Mai Vạn Long phải tốn nhiều công sức lẫn cơ mưu mới đánh bại được Hoàng Tiến, còn việc trừng phạt Chân Lạp tỏ ra kéo dài, không dứt khoát. Cho đến năm sau (1690) khi Nguyễn Hữu Hào được cắt cử vào thay Mai Vạn Long, tình hình đôi bên vẫn dùng dằng mà nguyên nhân viện dẫn không mấy thuyết phục là bởi sự khất hẹn của nữ sứ Chiêm Dao Luật, cuối cùng đành buộc lui binh, chấp nhận cách chức. Phải chăng vấn đề khai thông mạng lưới thương mại trên vùng châu thổ giàu có sản vật phương Nam là lợi ích thiết thực hàng đầu nên tranh thủ được sự đồng tình của quan quân, còn việc tiến sâu vào chinh phục nội địa Chân Lạp lúc này vừa chưa cần thiết vừa oai uy quá đáng, bởi như lời của Mai Vạn Long: “họ đã hàng phục thì còn chiến đấu làm gì?” hay lời của Nguyễn Hữu Hào: “Yên vỗ người xa, quý lễ mà không quý vật” [1].
           
Vụ A Ban nổi loạn ở trấn Thuận Thành (1693 – 1694).     
           
“Tháng 12, người Thanh A Ban cùng với hữu trà viên là Ốc nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là A Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng Ốc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng, tự xưng mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận Thành là Chế Vinh kêu họp dân Man đi theo” [1]. A Ban chiếm giữ Phố Hài, đánh tan quân cứu viện từ Bà Rịa, khống chế Phan Rí, vây bức Phan Rang. Nhận được sự cứu viện từ Bình Khang, quân Nguyễn phản công và truy đuổi đến tận địa giới Chân Lạp, dẹp yên biến loạn.
           
Giữa Champa và Trung Hoa xác lập quan hệ buôn bán lâu đời nên có lẽ tại khu vực mệnh danh quốc cảng Panrik của vương quốc Champa trên vùng đất tận cùng này, Hoa thương xuất hiện sớm hơn người Việt đồng thời tạo được mối bang giao chặt chẽ với cộng đồng Champa hơn so với người Việt, vốn đối thủ theo cả hai nghĩa: chính trị lẫn thương trường. Phản ứng mang tính chất sống còn thể hiện ngay từ đầu đã công khai về một lợi ích căn bản được xác lập chắc chắn giữa thương gia và lãnh chúa. Lãnh chúa Thát thì đứng ra tập hợp dân Chàm, có đồ đảng Chế Vinh làm thay; lái buôn A Ban thì núp bóng làm Ngô Lãng, vừa phỉnh dụ Chàm tộc bởi phép tắc thần thông vừa đánh lừa người Việt bằng nhân thân đã được Việt hoá, nhân danh người Việt chống lại chính sách cai trị của quan quân Việt. Thái độ trấn áp mạnh mẽ của quan quân Nguyễn đã làm tan vỡ liên minh giữa nhà buôn với quý tộc, đè bẹp sự thách thức về quyền lợi của giới Hoa thương trên vùng đất mới mở cực Nam Trung Bộ này.
           
Vụ Linh Vương – Quảng Phú tụ đảng tại Quảng Ngãi – Qui Ninh (1695).
           
“Người lái buôn ở Quảng Ngãi tên là Linh (không rõ họ) tụ đảng hơn 100 người, tự xưng là Linh Vương, tạo chiến thuyền, đúc binh khí, cùng người Qui Ninh là Quảng Phú (không rõ họ) hợp đảng, ra vào núi rừng, hoành hành cướp bóc, quan địa phương không dẹp được, nhân dân sợ hãi chạy báo lên” [1].
           
Quảng Ngãi cùng với Qui Ninh trực thuộc dinh Quảng Nam ngay từ đầu đã là đất trị quản của họ Nguyễn, thấm nhuần pháp chế khoan dung, thuần thục lâu đời. Hầu như không có những biến động xã hội đáng kể xảy ra ở đây cho đến tận đầu thế kỷ sau, trừ đôi lần đột nhập của một bộ tộc vùng cao, gọi là Mọi Đá Vách nhằm cướp của, bắt người. Nhờ vậy, cư dân yên ổn làm ăn, kinh tế phát đạt, buôn bán sầm uất, nhất là hoạt động thương mại cảng thị ven biển, thường do thương nhân người Hoa nắm giữ và điều tiết. Với thế lực kinh tế trong tay, bộ phận đại Hoa thương có khuynh hướng thao túng cả tuyến đường thương mại của Đàng Trong bằng nhiều thủ đoạn, kể cả việc cấu kết, dung nạp các băng nhóm cướp biển, cướp núi.

Lái buôn tên Linh tuy gốc gác không rõ ràng, như rất nhiều trường hợp mà trong Tiền biên xác định rằng “không rõ họ”, song có thể nhận diện kẻ cầm đầu này qua danh xưng và kẻ đồng mưu. Tự xưng Linh Vương, điều này thường thấy ở các nhóm giặc Tàu Ô, mà đây là thương gia chứ không đơn thuần tướng cướp; hợp đảng với Quảng Phú, rõ ràng họ Quảng đích thị Tàu rồi [7]. Cả hai chứng cứ đã xác quyết Linh Vương nguyên là một Hoa thương chính hiệu. Lợi dụng tình hình bất ổn cũng như sự dồn sức đối phó của chính quyền chúa Nguyễn ở hai đầu vương quốc, loạn A Ban tại phủ Bình Thuận phía Nam (cuối 1693 - đầu 1694) và loạn cung đình Huệ - Thông ngay tại Chính Dinh phía Bắc (1694), Linh Vương lập tức hành động. Giả hoặc cũng có thể cả ba thế lực tạo phản này cùng liên kết và hậu thuẫn cho nhau, nhưng do kế hoạch bất nhất nên hành động không đồng loạt? Dù âm mưu thế nào, chính quyền chúa Nguyễn cũng đã mạnh tay trừ khử: “Chúa sai dinh Quảng Nam hợp với hai phủ Quảng Ngãi, Qui Ninh đem quân đi đánh. Khi các đạo quân xông tới sơn trại thì Linh đã chết. Quảng Phú cả sợ, trốn vào Phú Yên, dân Man bắt đem nộp. Chúa sai giết cùng với đồ đảng 20 người, và hậu thưởng dân Man” [1]. Lệnh trực tiếp từ Minh Vương, có sự tiếp sức của người Thượng dọc dài trên một vùng rừng núi rộng lớn phía Tây, chứng tỏ tính chất khẩn trương lẫn nguy hiểm của vấn đề.

Vụ Man An Liệt chiếm cứ đảo Côn Lôn (1702 – 1703).

“Giặc biển là người Man An Liệt [Anh, English] có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi 5 người (...) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác” [1].

Côn Đảo thuộc chủ quyền chúa Nguyễn nằm ngoài khơi biển Đông, án ngự trên tuyến đường thương mại Ấn Độ - Trung Hoa nên là điểm dừng chân lý tưởng của các hạm thuyền quốc tế ngang qua khu vực. Công ty Đông Ấn của chính phủ Anh (EIC) âm mưu thiết lập một trạm trung chuyển nhằm tập kết và phát tán hàng hoá hoặc giao nhận mệnh lệnh. Sự kiện trên nằm trong một nổ lực lớn của người Anh nhằm vào mục đích đó, song họ đã bị thất bại: “trấn thủ Trấn Biên Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phúc Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp...” [1].

Tuy nhiên, cách giải thích của các tài liệu lại không trùng khớp nhau, thậm chí còn mâu thuẫn về nguyên nhân và thời điểm biến cố xảy ra. Phía người Anh cho biết Allan Catchpole, giám đốc thương điếm của công ty Đông Ấn Anh, có mang theo “một số người Maccassar [Mã Lai] được dùng làm lính và giúp dựng một công sự và đã ký với họ một hợp đồng ba năm”, và vì một lý do nào đó, ông này vào phút cuối đã không thực hiện hợp đồng, do đó những người Mã Lai “đầy căm thù và độc ác” đã giết gần hết số người Anh vào năm 1705; nhưng theo một văn bản khác, Nhật ký của công ty Đông Ấn buôn bán với Trung Hoa (1635 – 1834) thì một chiếc tàu tên là Catherine của công ty Anh tới Côn Đảo ngày 5.7.1704, giám đốc vẫn là Allan Catchpole mà vào thời điểm cuối tháng 7 này có tới 5 tàu Anh khác trên đường đi Trung Hoa đã ghé qua nhận mệnh lệnh [3].

Trong khi đó, chiến tích cùng công trạng của Trấn thủ dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan mãi mãi được chúa Nguyễn vinh danh trên bảng vàng các bậc đại công thần khai quốc: “giặc biển Man An Liệt là lũ Thuyền, Tô, Lỵ, Gia, Thi 5 người, xưng là 5 ban, cùng đồ đảng 200 người đóng ở đảo Côn Lôn lập đồn trại chứa của báu như núi. Bốn mặt đảo, chúng đều đặt súng lớn (...) Phan bèn triệu mộ 15 người Chà Và, mật sai trá hàng rồi nhắm ban đêm phóng hoả đốt giết (...) thu hết vàng lụa đem về nộp. Chúa hậu thưởng cho. Lúc Phan chết, được tặng phong hàm Thái bảo Phan Quốc công” [8].

Vụ người Man ở Thuận Thành, người Thanh ở Đông Phố và giặc biển ở Long Xuyên (1746 – 1747).
           
Năm 1746, “Người Man Thuận Thành [người Chàm] là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Lưu thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Cương [Cường] đem quân đi đánh, đắp luỹ Cổ Tỉnh để chống giặc, thừa lúc sơ hở đánh úp bắt được Bao Lai và Mã Lăng giết đi”; tháng giêng năm 1747, “khách buôn người Thanh là Lý Văn Quang đánh úp dinh Trấn Biên (...) Lưu thủ Nguyễn Cường đem binh của dinh giàn ở bờ phía Bắc, gởi hịch báo cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt được Văn Quang và đồ đảng 57 người. Chúa thấy là người Thanh không giết vội, đều hạ ngục; tháng 8 “giặc biển là tên Đức (không rõ họ) cướp bóc miền ngoài biển Long Xuyên. Mạc Thiên Tứ được tin báo, tức thì sai cai đội Từ Hữu Dụng đem 10 chiến thuyền, đi bắt được bọn giặc đem giết hết” [1].
           
Xâu chuỗi 3 biến cố trên, diễn biến một cuộc chiến giành giựt thị trường thương mại trên vùng đất đang khai mở ở phía Nam mang tính chất sống còn thật sự giữa chính quyền chúa Nguyễn với thế lực người Hoa đội lốt đủ các thành phần.

Lai, Lăng không có vẻ gì là Chàm tộc cả, bởi họ Dương Bao, Diệp Mã hoàn toàn là những họ kép của Trung Hoa [7]. Sử gia nhà Nguyễn đã lầm lẫn một cách cố ý để tiêu diệt không nương tay hành động chống trả người Việt cùng những quyền lợi kinh tế mà chính quyền chúa Nguyễn xác lập trên phần đất cuối cùng của vương quốc Champa có nhiều mối ràng buộc với thương lái Trung Hoa trước khi người Việt đặt chân đến. Họ liên kết với giới quý tộc và kích động dân Chàm phản kháng dưới chiêu bài chính trị rằng “không phục tùng chế độ cai trị của nhà Nguyễn” [9], như thường thấy ở nhiều nơi, vào nhiều thời điểm trên đất Thuận Phủ để giành lại địa vị thương mại tại một vị trí có nhiều cảng thị quan trọng, nối liền vùng Nam Trung Bộ phong phú các chủng loại đặc sản truyền thống với đồng bằng Nam Bộ dồi dào các nguồn hàng nông nghiệp.

Việc dẹp loạn Lai – Lăng có thể kéo dài chứ không gọn ghẽ như niên biểu mà Tiền biên đưa ra (khoảng cuối năm 1746), bởi để ngăn chặn hiệu quả các mũi tấn công của đối phương trên cả một vùng rộng lớn phía Nam Bình Thuận, Trấn thủ Nguyễn Cường của dinh Trấn Biên đã phải cho quân lính đắp luỹ Cổ Tỉnh dài hơn 645 trượng kiên cố [10], sau đó từng bước phản kích và lợi dụng sơ hở đánh úp doanh trại kẻ chủ mưu. Do đó, tranh thủ thời cơ lực lượng tại chỗ của chúa Nguyễn đang bị thu hút ở mặt Bắc, Lý Văn Quang dẫn đồng đảng đánh úp dinh Trấn Biên. Tuy nhiên Lưu thủ Nguyễn Cường đã kịp thời phối hợp với Cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại bao vây bắt sống.
Trong khi đó, giặc Đức hoạt động ráo riết vùng biển từ Qui Nhơn đến Long Xuyên, Ba Thắc cũng đã táo tợn tấn công cướp lấy thuyền long bài (thuyền vua ban) và hàng ban phẩm của Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ. Lai lịch cùng hành động của Đức ngờ rằng là một Tàu Ô hơn tên cướp Việt qua mô tả của văn thần nhà Nguyễn: “giặc biển nguỵ xưng là Vũ Vương (...) tên là Đức Bụng (người phủ Qui Nhơn, tên là Đức, vì bụng to gọi là Đức bụng)” [11], bởi dám liều lĩnh công khai tuyên chiến với quan quân nhà Chúa và rặt kiểu xưng vương bá chủ như thương tặc Đông Phố Đại Vương Lý Văn Quang, Linh Vương...         

Những vụ tập kích trấn Hà Tiên (1767 – 1771).

Trên điểm dừng chân cuối cùng của họ Nguyễn ở phương Nam này đã liên tục bị khuấy động bởi một loạt các tranh chấp thương mại, cướp biển, cát cứ, chiếm đoạt đất đai của người Hoa lẫn Xiêm La, người Chà Và và Chân Lạp, từ Mã Lai, Sumatra đến Miến Điện. Năm 1767, “người Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, lấy đảo Cổ Công là nơi hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng duyên hải, đón cướp thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm ngó Hà Tiên”; năm 1769, “Người Triều Châu là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch Mã, mưu đánh úp Hà Tiên, ngầm kết với người họ Mạc...”; năm 1770, “Phạm Lam họp đảng ở Hương Úc và Cần Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc nha Kê họp quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia đường thuỷ bộ đánh úp Hà Tiên”; năm 1771, lại “vua Xiêm (...) dùng tên giặc [núi] Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo, vây trấn Hà Tiên...” [1].

 Có thể nhận thấy chặng cuối con đường giao thương của chính quyền chúa Nguyễn là nơi quy tụ các lợi ích to lớn của giới thương nhân khu vực, trong đó tập trung đông đảo nhất vẫn là các lái Trung Hoa. Thủ đoạn vẫn như cũ, song mức độ tranh chấp của người Hoa càng về sau càng trở nên căng thẳng, khốc liệt. Thêm một tác động cùng chiều, đúng vào thời điểm này tại Xiêm La, Trịnh Quốc Anh tự lập làm vua: “Quốc Anh là người Triều Châu nước Thanh (...) thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm quốc vương” [1]. Cơ may của người đồng hương phương Bắc đã kích thích lòng tự tôn của những gã lái buôn phiêu lưu, khiến chúng càng nóng lòng manh động, liều lĩnh như trong canh bạc cuối: được ăn cả, ngã về không!

Với tính chất là một thể chế thương mại [3], chính quyền chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây một đầu cầu giao dịch quan trọng, mệnh danh một Tiểu Quảng Châu và được bảo vệ một cách nghiêm ngặt bằng lực lượng bố phòng địa phương, dưới sự hỗ trợ tích cực của Gia Định. Từ năm 1714, Minh Vương phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn Hà Tiên, tước Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu chết, năm 1736 con là Mạc Thiên Tứ thế tập, được Ninh Vương “thăng làm Khâm sai Đô đốc Tung Đức hầu, ban cho 3 chiến thuyền long bài, miễn cho lệ thuế thuyền buôn, hàng năm ra nước ngoài mua đồ vật quý, đến Kinh dâng tiến” [11]. Rõ ràng quyền lợi của chúa Nguyễn tại đây là không thể nhân nhượng, do đó các thế lực tranh chấp đều lần lượt bị đè bẹp, ngay cả quân Xiêm cũng bị đánh cho đại bại, vua Xiêm phải gửi thư xin cầu hoà.

Cùng lúc này, phong trào Tây Sơn nổ ra đã cuốn hút những nổ lực của họ Nguyễn từ mở đất và thương mại chuyển sang giành giữ đất và chiến tranh. Tuy nhiên, những kinh nghiệm giao thương và lợi thế kinh tế của vùng đất phía Nam đã được họ Nguyễn phát huy tối đa, tạo nên đối trọng vật chất to lớn, góp phần vươn lên giành lấy thắng lợi chung cục trong cuộc nội chiến mất còn suốt ba thập niên cuối thế kỷ XVIII.

Tài liệu trích dẫn.
[1] QSQ triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, tập 1, NXB Sử học, HN, tr.37, 73-74, 135, 125, 136, 140-142, 148, 152, 159, 161, 209-210, 233-240.
[2]  UBQG (1991), Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH, HN, tr.255-256.
[3] Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Namthế kỷ 17 và 18, NXB Trẻ, tr.87-88, 113-114, 125.
[4] Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn hoá – Thông tin, tr.65-66.
[5] Nguyễn Lương Bích (2003), Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, NXB Quân đội nhân dân, tr.179-181.
[6] Tôn Châu Quân (2008), “Nguyễn Phúc Tần và trận hải chiến lịch sử năm 1644”, tạp chí Xưa nay (số 304), tr.12-13.
[7] Nguyễn Khôi (2006), Các dân tộc ở Việt Nam: cách dùng họ và đặt tên, NXB Văn hoá dân tộc, HN, tr.161-163.
[8] QSQ triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện, tập 1, NXB Thuận Hoá, tr.126.
[9] ƯBND tỉnh Bình Thuận (2006), Địa chí Bình Thuận, Sở Văn hoá – Thông tin tỉnh Bình Thuận, tr.228.
[10] QSQ triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 3, NXB Thuận Hoá, tr.166.
[11] Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, NXB Giáo dục, tr.120-121.