Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Một số biểu hiện của sự giao lưu và tiếp xúc văn hoá của cư dân vùng ĐBSCL trong lịch sử

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất mới nếu như chúng ta lấy mốc thời gian từ lúc Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào khai thác vùng Đồng Nai - Gia Định và những cựu thần của nhà Mình đưa gia quyến, binh lính của mình vào vùng đất này sinh sống, nhất định không hợp tác với nhà Thành, một triều đại đã lật đổ nhà Mình để lên nắm quyền tại Trung Hoa.

   Nhưng chúng ta cũng có thể nói đây là một vùng đất cổ vì nơi đây là một vùng lãnh thổ quan trọng của vương quốc Phù Nam đã từng tồn tại với một nền văn hóa rất tiêu biểu. Vương quốc Phù Nam sụp đổ vào thế kỷ thứ VII, vùng ĐBSCL dần dần hoang hóa và trở thành một vùng đất gần như vô chủ trong suốt hàng chục thế kỷ sau đó. Khoảng thế kỷ XVI, những cư dân người Việt từ vùng Thuận Hóa đã bắt đầu di cư vào và khai phá vùng đất này. Họ đem theo những phong tục tập quán của dân tộc mình vào vùng đất mới. Trong quá trình cộng cư với dân tộc khác trên vùng đất mới,, những phong tục tập quán của người Việt đã có sự tiếp xúc và ảnh hưởng lẫn nhau với phong tục tập quán của người Khmer và người Hoa. Khi những yếu tố văn hóa phương Tây du nhập vào Việt Nam, dù bằng con đường truyền đạo hay xâm lược thì những yếu tố văn hóa đó vẫn bén rễ và phát triển ở vùng ĐBSCL. Sự tiếp biến có chọn lọc những giá trị văn hóa của nhiều nền văn hóa khác nhau đã  tạo ra một sự phát triển đa dạng và đặc sắc của cư dân trên vùng đất này.
 Sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa của ba dân tộc Kinh-Hoa-Khmer vùng ĐBSCL

   Những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt vùng ĐBSCL có nguồn gốc từ đồng bằng Trung và Nam Trung bộ, nhưng trong quá trình cộng cư lâu dài đã có sự tiếp biến thêm nhiều yếu tố từ phong tục của người Khmer, người Hoa. Đây là quá trình tiếp xúc văn hóa tự nguyện qua quá trình cùng sống, sinh hoạt lâu dài trên cùng một địa vực.
   Cộng đồng người Hoa cũng đặt chân đến ĐBSCL khá sớm, khoảng giữa thế kỷ XVII.  Đây là đợt di cư lớn và ồ ạt nhất của người Hoa vào Việt Nam do tình trạng chiến tranh kéo dài và cuộc đấu tranh dân tộc gay gắt ở Trung Quốc. Thành phần di cư vào vùng ĐBSCL bao gồm một số quan lại, tướng lĩnh và quân sĩ nhà Minh bị thất bại nhưng không thần phục nhà Thanh. Bên cạnh đó, còn có một số thương nhân, thường dân và một số gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bỏ quê hương, đi tìm một tương lai mới trên một vùng đất mới. Người Hoa khi đến vùng đất Nam bộ họ khai phá ở vùng Biên Hòa, Mỹ Tho (nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên) và ở vùng Hà Tiên (nhóm Mạc Cửu). Về sau họ cư ngụ ở khắp đất Nam bộ chủ yếu tập trung ở khu vực chuyên làm về tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ.
   Nền văn hóa cổ của đất Nam bộ là văn hóa Khmer cổ, song ảnh hưởng của chất Khmer trong văn hóa Nam bộ, nhất là văn hóa tâm linh lại không đậm nét bằng văn hóa Hoa, một dạng văn hóa ngoại nhập cách nay cũng chỉ vài trăm năm trở lại đây. Điều đó có thể là do hành trang văn hóa mà lưu dân người Việt mang vào Nam bộ là thói quen sinh hoạt, phong tục tập quán lâu đời của người Việt trong đó đã hàm chứa khá đậm nét văn hóa Hoa. Nên ngay ở buổi đầu ở vùng đất mới này, họ dễ dàng gần gũi, hòa hợp với đám người Hoa cũng mới hòa nhập hơn với người Khmer tại chỗ. Đối với văn hóa bản địa, lưu dân người Việt chỉ tiếp thu những gì gần gũi có nét tương đồng và dễ tiếp nhận.
   Có thể nhận định rằng, trước khi văn hóa Pháp du nhập vào vùng ĐBSCL thì ở đây đã có người Khmer, người Hoa, người Việt và một bộ phận người Chăm sinh sống. Tuy sinh sống trên cùng một vùng đất nhưng mỗi dân tộc lại có bản sắc văn hóa riêng của mình. Chẳng hạn như người Khmer họ theo Phật giáo Theravada. Phật giáo Theravada hòa quyện với văn hóa người Khmer ở Nam Bộ từ xưa đến nay. Người Việt vào mang theo tục lệ thờ cúng tổ tiên và người Việt ở vùng Nam Bộ không còn ảnh hưởng Nho giáo mạnh mẽ như ở miền Bắc và miền Trung. Người Hoa thờ Thần tài, thờ Quan Công...Do trong quá trình giao lưu văn hóa, người Việt, người Khmer, người Hoa. Người Khmer đã chịu ảnh hưởng của phong tục thờ cúng tổ tiên. Họ cũng đặt ly hương, chân đèn, mâm quả như người Việt, người Hoa và chưng bày bàn thờ Phật chung với bàn thờ tổ tiên. 
   Khảo sát dưới góc độ văn hóa chúng ta thấy sự tiếp xúc văn hóa giữa người Hoa và người Việt diễn ra mạnh mẽ hơn so với giữa người Việt và người Khmer. Có lẽ điều này có nguồn gốc từ xưa, các yếu tố của người Việt chịu sự tiếp xúc văn hóa cưỡng bức trong giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc. Tuy không đồng hóa được dân tộc Việt nhưng những yếu tố văn hóa tốt đẹp cũng được cư dân người Việt tiếp thu, phong tục tập quán cũng nằm trong hoàn cảnh lịch sử chung đó. Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử, phong tục tập quán của người Việt theo chân những con người khai hoang mở đất, tiến dần về phương Nam. Giữa lúc đó, những yếu tố văn hóa của Trung Hoa theo chân của những cựu thần nhà Minh du nhập vào Nam bộ. Hai nền văn hóa gặp lại nhau, vừa lạ vừa quen. Chính điều này, làm cho văn hóa của người Việt và người Hoa vùng ĐBSCL dễ nẩy nở và phát triển hơn. Xin nêu ra một ví dụ về sự tiếp xúc văn hóa này. Chẳng hạn, hầu hết người Việt Nam Bộ vẫn giữ tập quán tảo mộ vào ngày 25 tháng Chạp trước khi làm lễ đón ông bà vào ngày 30 tháng Chạp âm lịch, nhưng một bộ phận người Việt - Nam bộ cũng theo tập quán tảo mộ vào tiết Thanh minh tháng Ba âm lịch giống như người Hoa.
    Sự tiếp xúc văn hóa giữa người Khmer và người Hoa nếu xét dưới góc độ phong tục vòng đời chúng tôi nghĩ là cũng có. Vấn đề là chúng tôi chưa có đủ tư liệu để làm sáng tỏ nhận định này. Theo quan điểm chủ quan của chúng tôi thì nhận định trên cũng có cơ sở khoa học chắc chắn. Người Hoa trong quá trình di cư vào vùng ĐBSCL, họ chủ yếu làm nghề buôn bán nhỏ. Họ len lỏi vào trong các phum sóc Khmer buôn bán. Để công việc kinh doanh thuận lợi hơn trong các phum sóc Khmer, họ đã chủ động kết hôn với người Khmer. Quá trình này diễn ra trong một thời gian dài, những thế hệ sau ra đời đã mang trong mình hai dòng máu Hoa-Khmer và đương nhiên cũng mang trong mình những giá trị tinh thần của hai nền văn hóa. Như vậy, quá trình tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc này có thể chủ yếu là qua con đường hôn nhân. Càng về sau, do sự phân bố mật độ dân cư và kết cấu dân cư thay đồi, đã dẫn đến việc các dân tộc anh em sống xen kẻ với nhau mà không theo một trật tự như trước. Người Khmer bây giờ không còn sống bó hẹp trong các phum sóc nữa mà họ có thể cùng sống chung với người Việt, người Việt, người Hoa trong các xã phường. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc và phát triển văn hóa ngày càng có chiều sâu hơn.

Tiếp xúc và giao thoa với văn hóa phương Tây của cư dân vùng ĐBSCL

   Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng với bản chất dung hòa và sẵn sàng tiếp nhận những nền văn hóa đến từ bên ngoài. Vào cuối thế kỷ XVI, rồi sang thế kỷ XVII, XVIII, trong đời sống tinh thần của bộ phận người Việt Nam nói chung và người dân vùng ĐBSCL nói riêng đã xuất hiện một yếu tố hết sức xa lạ thâm nhập vào. Đó là sự thâm nhập của các yếu tố của nền văn minh Phương Tây.
   Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam kỳ (1867), bên cạnh việc đầu tư và tiến hành khai thác kinh tế vùng ĐBSCL để phục vụ cho chính quốc. Thực dân Pháp còn xúc tiến nhiều chương trình đầu tư về văn hóa để dễ dàng thực hiện chính sách cai trị. Đây là một việc mà tất cả các nước thực dân đều phải làm khi tiến hành xâm lược các thuộc địa. Chính sách văn hóa thường đảm bảo cho việc cai trị và khai thác thuộc địa kéo dài. Như vậy, trong buổi ban đầu các nền văn hóa gặp nhau, thực hiện sự giao tiếp văn hóa theo lối cưỡng bức. Có nghĩa là, người Pháp muốn áp đặt những yếu tố văn hóa Phương Tây vào nước ta nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Những yếu tố văn hóa phương Tây bám rễ vào vùng đất mới và có điều kiện phát triển. Khi những cư dân người Việt nhận thấy văn hóa phương Tây cũng có những điều rất độc đáo và mang đậm tính nhân văn, thế là họ theo. Như vậy, từ sự tiếp xúc văn hóa theo kiểu cưỡng bức văn hóa đã dần dần chuyển biến thành sự giao tiếp văn hóa tự nguyện. Phong tục của người Việt vùng ĐBSCL theo dòng chảy của sự giao tiếp văn hóa đó mà tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa Phương Tây.
   Nếu như ảnh hưởng văn hóa Phương Tây ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng thì đạo Thiên Chúa là nhân tố đầu tiên trong sự ảnh hưởng này. Có thể nói ảnh hưởng trong đời sống văn hóa tinh thần không có ảnh hưởng nào mạnh hơn tôn giáo và cũng như không sự quyến rũ nào bằng sự quyến rũ của tôn giáo một khi nó đi vào trong lòng người. Tôn giáo có thể có những nội dung tiêu cực, hạn chế nhưng xét về bản chất tôn giáo chính là văn hóa. Sự xuất hiện của đạo Thiên chúa đã tạo thêm màu sắc mới trong bầu trời tôn giáo Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Bầu trời ấy xưa kia chỉ có ông Trời, ông Phật, nay có thêm Đức Chúa. Như vậy việc truyền bá đạo Thiên Chúa và những yếu tố văn hóa, tư tưởng Phương Tây vào vùng ĐBSCL là một quá trình lâu dài chứa đựng đầy phức tạp lẫn tế nhị mà trong đó người Pháp đóng vai trò quan trọng nhất.
   Trong quá trình khai thác thuộc địa để phục vụ cho chính quốc, người Pháp đã truyền tải vào vùng ĐBSCL những ảnh hưởng của văn minh Phương Tây, mặc dù việc truyền tải đó không năm ngoài âm mưu phục vụ cho quá trình khai thác của Pháp, nhưng nó cũng phần nào tác động tích cực đến việc truyền tải những yếu tố văn hóa mới, nó làm phong phú thêm cho nền văn hóa và có tác dụng rất lớn đến vùng đất này. Ngoài ra, trong quá trình khai thác của Pháp những yếu tố tích cực như những tư tưởng về tự do cá nhân, khẳng định cá nhân đã xuất hiện và tác động  mạnh mẽ đến xã  hội vùng ĐBSCL. Chẳng hạn, trong tình yêu trong hôn nhân vấn đề “môn đăng, hộ đối” không còn giữ được chân giá trị như trước nữa. Cái quyền “được lựa chọn” của những thanh niên nam nữ trong tình yêu, trong hôn nhân hay trong nhiều vấn đề hệ trọng khác trong đời sống dần dần được giải quyết một cách dân chủ hơn. Những điều nà rõ rang đã chịu ảnh hưởng của những tư tưởng mới từ phương Tây đưa sang.
   Đầu thế kỷ XX, khoảng thời gian đẹp nhất để những yếu tố văn hóa Pháp hòa nhập vào cuộc sống của người Việt. Chữ Quốc ngữ một thành tựu do tiếp xúc văn hóa mà có, được sử dụng rộng rãi, lối sống, cách ăn mặc được các nhà tư tưởng tiến bộ Việt Nam cổ súy. Tiêu biểu là hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nhiều sự cách tân mãnh liệt, đi ngược lại với phong tục truyền thống của dân tộc được tiến hành. Đó là việc ăn mặc theo lối Âu hóa, tóc cắt thật ngắn, gọn gàng chớ không để dài như trước nữa. Văn hóa Pháp cũng ảnh hưởng rất lớn đối với người Việt, thậm chí đến cả người Hoa và người Khmer.
  Chúng tôi xin nêu điển hình của việc giao lưu và tiếp xúc văn hóa của cư dân ĐBSCL với văn hóa Pháp về mặt tinh thần: 
      Lễ sinh nhật: Theo quan niệm của người Pháp người ta rất chú trọng đến lễ sinh nhật. Vì đây là những kỷ niệm đẹp của họ. Thông thường họ tổ chức sinh nhật cho bản thân và người thân. Buổi lễ sinh nhật luôn luôn bao giờ cũng có bánh Gatô sinh nhật và những ngọn nến, thường buổi sinh nhật thường được tổ chức vào buổi chiều hoặc tối có bạn bè thân thiết, người thân cùng chung vui. Họ thường sắp đặt số nến bằng với số tuổi của người sinh nhật quanh chiếc bánh rồi chủ tiệc bắt đầu thổi tắt nến, bắt đầu chính thức vào bữa tiệc. Mọi người chung vui chia nhau bánh sinh nhật. Tuy theo quy mô cũng như cách thức tổ chức buổi tiệc có thể kết thúc sớm hay muộn, Mọi người khi dự sinh nhật đều có chuẩn bị cho mình một món quà để tặng. Khi nhận quà họ sẽ mở ngay để thể hiện sự tôn trọng với người thân, bạn bè. Trong buổi lễ còn có tổ chức khiêu vũ đối với thanh niên, còn trẻ con thì được hưởng buổi liên hoan ngọt và vui chơi thoải mái. Ở Việt Nam nói chung và các tỉnh miền Tây Nam kỳ nói riêng ngày lễ sinh nhật đã trở thành ngày lễ không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa của người dân. Trong lễ sinh nhật cũng có bánh và nến sinh nhật. Cũng có hình thức tặng quà cho người sinh nhật, đây là dip để mọi người vui chơi thoải mái. Trong thời buổi hiện đại, từ thành thị đến nông thôn, nhưng gia đình tiến bộ. tiếp nhận văn hóa Pháp đều tổ chức sinh nhật cho các thành viên trong gia đình. Đây là dịp để gia đình bày tỏ sự quan tâm lẫn nhau và để bạn bè có dịp tụ tập vui vẻ, thắt chặt mối quan hệ cộng đồng. Trong lễ sinh nhật, bánh kem và nến cũng là hai thứ không thể thiếu được. Đối với người Việt, có thể buổi tiệc sẽ phong phú hơn với nhiều loại thức ăn khác, món Tây cũng có, món địa phương vùng ĐBSCL cũng có. Miễn sao buổi tiệc nhộn nhịp, vui vẻ và mọi người đều hài lòng. Lễ sinh nhật ngày nay đã có một chỗ đứng trong phong tục vòng đời của cả ba dân tộc.
    Lễ cưới: Chúng ta hãy nhìn trên ngón tay đeo nhẫn của các cặp vợ chồng. Chiếc nhẫn lấp lánh đó là biểu tượng cho tình yêu, tình vợ chồng son sắt và nó cũng chính là một yếu tố quan trong trong hôn nhân của người Pháp. Chúng tôi nhận thấy rằng, việc đeo nhẫn đính hôn hoặc nhẫn cưới là một nét văn hóa đẹp đáng được tiếp thu. Bởi lẽ việc đeo nhẫn là một việc rất dễ thực hiện lại mang một ý nghĩa tinh thần rất quan trọng. Theo sự khảo sát, phỏng vấn của chúng tôi đối với một số sinh viên người Khmer, người Hoa và người Việt ở Trường đại học Cần Thơ thì đa số các bạn cho rằng việc đeo nhẫn đính hôn là rất quan trọng và có nhiều ý nghĩa. Và nhiều người mơ ước mình sẽ được đeo chiếc nhẫn đầy ý nghĩa này. Thậm chí có những đối trai gái đang yêu nhau, mặc dù chưa biết chắc là sau này mình có thể cưới nhau hay không, họ cũng thích đeo nhẫn vào ngón tay áp út. Điều này để khẳng định chàng trai đã có người yêu, cô gái là hoa đã có chủ. Có nghĩa là khẳng định tình yêu sâu sắc và ý chí tiến đến hôn nhân của họ.
    Đối với người Pháp đám cưới được tổ chức vào thứ 7 và chủ nhật, ngày cuối tuần của tháng trong năm. Trang phục trong đám cưới, Cô dâu mặc áo dài trắng hoặc đầm, chú rể mặc Comlê màu sẫm. Khi làm lễ thành hôn dân sự thì buộc phải tiến hành ở Tòa thị chính dưới sự chứng kiến của chính quyền, xong rồi mọi người thân cùng làm lễ ở nhà thờ và ăn tiệc ở nhà hàng. Đa số các đám cưới ở Pháp được tổ chức theo nghi thức tôn giáo ở nhà thờ. Ở nước ta, ngoài những tín đồ Thiên Chúa giáo tổ chức lễ cưới ở nhà thờ sau khi đã đăng kí kết hôn ở cơ quan chính quyền địa phương. Những người không theo tôn giáo vẫn phải bắt buộc đăng kí kết hôn ở chính quyền địa phương và tiệc cưới có thể tổ chức ở nhà hàng.
    Ngày nay, ở vùng ĐBSCL chúng ta thấy đám cưới thường được tổ chức vào thứ 7 và chủ nhật ở Nhà hàng, vì là ngày nghỉ lên mọi người sẻ rảnh để đi dự đám cưới. Cô dâu, chú rễ có thể mặc trang phục truyền thống khi làm lễ gia tiên tại gia đình. Nhưng khi tiếp đãi quan khách, bạn bè tại nhà hàng thì thông thương cô dâu vẫn mặc đầm cưới và chú rễ vẫn mặc đồ comlê.

Vài nhận định kết luận
     Những giá trị văn hóa của cư dân cùng ĐBSCL trong lịch sử phát triển của mình đã kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp những giá trị văn hóa của quốc gia dân tộc. Đây là một sự kế thừa tích cực, làm cho nền văn hóa dân tộc có thêm những giá trị mới.
    Trong quá trình cộng cư trên vùng đất này đã nảy sinh một quá trình tiếp xúc văn hóa tự nguyện của ba dân tộc Kinh-Hoa-Khmer. Đây là một sự gắn kết của ba dân tộc anh em, cùng khai phá, cùng sống và cùng phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc mình.
    Văn hóa phương Tây đại diện là đạo Thiên Chúa đến với vùng ĐBSCL vào khoảng thế kỷ XVIII. Sau khi xâm lược Việt Nam, người Pháp với ý định biến Việt Nam thành một nước thuộc địa nên Pháp muốn bứt Việt Nam ra khỏi truyền thống cũ để gần phương Tây hơn để tiện việc thu phục và cải biến. Chính vì vậy mà Pháp, ngoài việc tiến hành những đường lối chính sách về kinh tế, quân sự, đã rất chú ý đến việc cải biến trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa tinh thần. Văn hóa của cư dân vùng ĐBSCL có điều kiện tiếp xúc với các yếu tố văn hóa phương Tây.
    Sự va chạm giữa các nền văn hóa trên thế giới đôi khi xảy ra nhưng xung đột, nhưng cũng có lúc sự va chạm này diễn ra một cách hòa bình. Xét trên bình diện tổng thể thì sự tiếp xúc văn hóa giữa các nền văn hóa cùng có mặt ở vùng ĐBSCL là sự tiếp xúc văn hóa trong hòa bình, sự tiếp biến văn hóa có chọn lọc. Chính điều này đã làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú và đậm đà bản sắc dân tộc

 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Văn hoá và cư dân ĐBSCL, NXB KHXH, 1990.
2. Bùi Thế Cường (chủ biên), Khoa học xã hội Nam bộ, NXB Khoa học xã hội, 2007.
3. Nguyễn Văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu với những cuộc khai phá miền Hậu Giang, NXb Trẻ, 2006
4. Huỳnh Lứa, Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX, NXB KHXH, 2000.
5. Sơn Nam, Tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Trẻ,  2000.
6. Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long, nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn,  NXB Trẻ, 2001.
7. Sơn Nam, Văn minh miệt vườn, NXB Văn Hoá, 1992
8. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP.HCM, 2001.
Ths. Trần Minh Thuận




MỐI QUAN HỆ GIỮA THƯƠNG CẢNG THỊ NẠI VÀ SÔNG CÔN- NỀN TẢNG CHO SỰ PHỒN THỊNH CỦA TIỂU QUỐC VIJAYA

Thương cảng Thị Nại hình thành cùng với sự xuất hiện của tiểu quốc Vijaya. Trải qua 5 thế kỷ tồn tại (X- XV), Thị Nại đóng vai trò vừa là quân cảng vừa là thương cảng của vương quốc Champa, là vị trí trọng yếu để tiến vào kinh đô Vijaya, điểm đến quen thuộc của các thương thuyền trong và ngoài nước.


Một khúc thượng nguồn sông Côn. (ảnh: Internet)
Để trở thành một trung tâm kinh tế đạt hiệu cao thương cảng Thị Nại đã thiết lập một mạng lưới giao thương với các vùng, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, nơi có những sản vật, lâm thổ sản quý hiếm mà các thương nhân nước ngoài rất ưa chuộng. Mạng lưới giao thương này được thiết lập theo mô hình “mạng lưới trao đổi ven sông”, trong đó sông Côn đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải hàng hóa lẫn văn hóa cho Thị Nại nói riêng và vùng Vijaya nói chung. Qua mô hình này chúng ta có thể nhận thấy: Thị Nại được xem là trung tâm kinh tế, trung tâm thu gom, xuất nhập khẩu hàng hóa cho trong và ngoài tiểu quốc Vijaya, còn sông Côn là con đường chính trong việc vận chuyển hàng hóa lẫn văn hóa cho Thị Nại và ở chiều ngược lại, từ Thị Nại những sản phẩm miền biển, miền xuôi hay từ các thuyền buôn ngoại quốc sẽ lại được chuyển đến cho cộng đồng dân cư miền ngược. Việc hình thành tuyến giao thương nội địa dọc sông Côn đã góp phần làm cho Thị Nại tồn tại, phồn vinh từ thế kỷ X-XV nói riêng và cả vùng Vijaya nói chung.
1.
Lịch sử cổ trung đại Đông Nam Á đã ghi nhận rằng: Champa là một vương quốc hướng biển, một thể chế biển điển hình của các nước Đông Nam Á cổ xưa. Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XV cùng với những biến đổi nội tại của vương quốc Champa, vùng Vijaya đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vương quốc. Điều này đã được minh chứng qua những ghi chép trong sử sách của Trung Quốc và Việt Nam và đặc biệt là một khối lượng lớn di tích, di vật thuộc về Champa (những di tích đền tháp, nguồn tài liệu bi ký, các thương cảng, những tòa thành…) còn tồn tại cho đến ngày nay.
Đóng vai trò động lực trong sự phát triển của Champa thế kỷ X-XV là thương cảng Thị Nại, thương cảng chính yếu của vùng Vijaya và vương quốc Champa, đồng thời là cửa ngõ quan trọng nhất để Champa tham dự và hội nhập vào nền hàng hải khu vực và thế giới. Thị Nại vừa là thương cảng vừa là quân cảng, một vị trí trọng yếu để tiến vào kinh đô Vijaya. Cảng Thị Nại là cửa ngõ hướng ra biển không chỉ của Champa mà còn của cả vùng cao nguyên rộng lớn. Vớivị trí nằm trên con đường hàng hải quốc tế, Thị Nại đã từng có mối quan hệ với nhiều khu vực trong nước và các quốc gia láng giềng. Chính vì thế mà thương cảng này được ghi chép qua nhiều thư tịch cổ Việt Nam như Việt sử lược, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Phương đình dư địa chí… với nhiều tên gọi khác nhau như: Thi Lị Bì Nại, Tì Ni, Thiết Ti Nại, Thu Mi Liên, Tân Châu Cảng, Chiêm Thành Cảng, Cri Banoy, Cri Bandy, Chopinai…
Vai trò quan trọng của thương cảng Thị Nại với chức năng trung tâm giao lưu thương mại chính của Champa cũng đã được Lê Tắc trong An Nam chí lược đã nêu rõ: “Chiêm Thành lập quốc tại mé biển, thương thuyền Trung Quốc vượt bể đi qua các nước phiên phục, thường tập trung tại đấy để chứa củi và nước, là bến tàu lớn nhất tại phía Nam[1]. Điều này càng được minh chứng khi những chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa dưới thời nhà Minh qua các nước Đông Nam Á và Nam Á vào thế kỷ XV. Trong những chuyến đi này đã có ghé qua Champa[2].
Một trong những nhân tố giúp cho vùng Vijaya phát triển rực rỡ ở giai đoạn này đó chính là sự phát triển của con đường tơ lụa trên biển. Suốt thời Trung đại, mạng lưới giao thương đường thủy (sông, biển) đóng vai trò chính cho mọi hoạt động kinh tế của Champa trong khi giao thông đường bộ còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, sự thiết lập mạng lưới giao thương qua sông Côn mang ý nghĩa vô cùng to lớn cho sự phồn thịnh của tiểu quốc Vijaya cả về kinh tế lẫn văn hóa.
Nhiều nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về lịch sử chính trị- kinh tế của vương quốc Champa đã dựa vào mô hình của Bronson- hệ thống trao đổi ven sông/riverine exchange network. Theo mô hình này, “hệ thống trao đổi ven sông có một trung tâm kinh tế, thương mại ở vùng duyên hải ven bờ biển, thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là một trung tâm hải thương quốc tế và là điểm kết nối giữa các cửa sông của các vùng lân cận. Cũng có những trung tâm ở thượng nguồn với vai trò là những điểm tập trung ban đầu thu gom các nguồn hàng hóa, lâm thổ sản và thương phẩm được sản xuất và khai thác bởicác cư dân ở vùng miền núi và thượng du xa sông nước. Sau đó, các nguồn hàng này được tập kết về các trung tâm ven biển[3]. Hàng hóa được chuyển đến trung tâm thương mại chính bằng đường sông. Về phương thức vận chuyển, tiến sĩ Đinh Bá Hòa (Giám đốc bảo tàng Bình Định) đã đưa ra nhận định: “Con đường thông thương giữa đồng bằng và miền núi lúc bấy giờ không ngoài đường thủy”. Bằng phương thức này họ có thể luân chuyển hàng hóa một cách thuận lợi, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Còn tác giả Nguyễn Hữu Thông cho rằng: “Hoạt động trao đổi hàng hóa thường diễn ra với tính chất và cấp độ không giống nhau. Các thương lái tiếp xúc trực tiếp với phần lớn dân làng chỉ dừng lại ở hình thức trao đổi hàng lấy hàng, nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, một số không nhiều và không phổ biến là những thương nhân chuyên nghiệp có tích lũy vốn và hàng hóa để buôn bán với những mặt hàng thu được ở phía Tây với các trung tâm thị tứ và bến cảng.” [4]
Mô hình này như một phương cách lý giải sự nổi trội về kinh tế- chính trị của vương quốc Champa trong một khoảng thời gian khá dài với sự hiện diện và nắm giữ mấu chốt quan trọng của tuyến mậu dịch hải thương.
Với mô hình trên chúng ta có thể thấy rõ sự vận hành của mạng lưới hải thương nội địa trong các tiểu quốc của Champa. Nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương, đã có những sự lý giải hết sức chặt chẽ và hợp lý khi áp dụng mô hình này để giải thích về mạng lưới trao đổi ven sông sông Thu Bồn ở vùng Amaravati. Trong đó sông Thu Bồn như là một sợi dây kết nối cộng đồng cư dân người Thượng ở miền Tây Amaravati (thuộc Quảng Nam ngày nay) với thương cảng Đại Chiêm hay sau đó là Cù Lao Chàm, từ đây hàng hóa luân chuyển khắp nơi [5].
Còn đối với vùng Vijaya (thuộc tỉnh Bình Định ngày nay) nếu áp dụng mô hình ấy vào việc nghiên cứu hệ thống mạng lưới trao đổi nội địa dọc theo các nhánh sông Côn sẽ giúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về sự phát triển kinh tế, văn hóa nói chung đặc biệt là mối quan hệ giao thương giữa thương cảng Thị Nại và vùng Tây Nguyên thông qua sông Côn nói riêng.
2.
Sông Côn là con sông lớn nhất ở Bình Định nó còn có tên gọi là sông Tam Huyện vì chảy qua ba huyện Bình Khê (An Khê và Tây Sơn ngày nay), An Nhơn, Tuy Phước. Sông Côn được chia thành nhiều nhánh và đổ ra vịnh Thị Nại. Do đó, sử nhà Nguyên đã chép trong Kinh thế đại điển tự lục “Cửa cảng phía Bắc liền với biển, bên cạnh có năm cảng nhỏ, thông với Đại châu nước ấy, phía Đông Nam có núi ngăn, phía Tây có thành gỗ”[6]. Cửa biển phía Bắc là thương cảng Thị Nại còn năm cảng nhỏ đó chính là năm cửa của sông Côn. Có thể xem sông Côn là trục chính của mạng lưới trao đổi ven sông, trục chính của con đường tới kinh đô Vijaya.
Mối quan hệ giữa sông Côn và Thị Nại được thể hiện ở chỗ: Sự kết hợp của hai thành tố để hình thành nên một vị trí chiến lược trên phương diện kinh tế và chính trị của Vijaya. Thương cảng Thị Nại nằm ở khu vực thôn Bình Lâm ngày nay. Ba mặt Bắc, Tây, Nam có sông ngăn, đó chính là các nhánh của sông Côn, mặt Đông ngày xưa là vịnh biển. Trong bài viết “Miền Trung Việt Nam và văn hóa Champa” giáo sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra mô hình nêu lên sự biểu thị mối quan hệ giữa cửa biển với đô thị, thánh địa và núi thiêng theo chiều ngang từ đông sang tây của dòng sông kể từ cửa biển lên đầu nguồn. Sông không chỉ được nối bằng các bến đó mà còn là sự tiếp nối giữa núi và biển[7]. Theo sự lý giải này thì người Chăm dùng các dòng của sông làm hào chống đỡ các cuộc tấn công từ phương Bắc, bảo vệ cho Thị Nại mỗi khi có chiến tranh, giúp Thị Nại thực hiện chức năng quân cảng của mình, ngăn chặn sự tấn công lên kinh thành Vijaya. Bên cạnh đó, các dòng sông tạo điều kiện thuận lợi cho việc các thương thuyền chở hàng hóa đến cảng Thị Nại để thương cảng này thực hiện chức năng là giao thương với các khu vực khác trong vương quốc Champa và xa hơn nữa là giao thương với quốc tế.
Ngoài ra, sông Côn còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước, bồi đắp phù sa hàng năm cho vùng đồng bằng Bình Định làm cho vùng đồng bằng này trở nên phì nhiêu, màu mỡ, “Cánh đồng phì nhiêu, màu mỡ, phía Bắc trông ra vịnh Thị Nại là một trong những nơi thịnh vượng nhất của Champa”[8]…chính vùng đồng bằng này làm hậu phương lương thực vững chắc cung cấp cho cảng thị và tiểu quốc Vijaya. Điều này giúp cho Vijaya phát triển vượt trội so với các tiểu quốc khác trong Mandala Champa. Cũng giống như sông Thu Bồn ở phía Bắc, dòng sông Côn được coi như một sợi dây liên kết, một con đường vận chuyển văn hóa cũng như các mối giao thương về kinh tế giữa miền ngược với miền xuôi của vùng Vijaya. Nếu đi dọc theo dòng sông Côn chúng ta dễ dàng nhận thấy một hệ thống trung tâm, kinh tế, chính trị và tôn giáo. Phía cửa sông là thương cảng Thị Nại, trung tâm kinh tế của vùng Vijaya và cả vương quốc Champa, ven lưu vực sông là thành Đồ Bàn/Chà Bàn, trung tâm chính trị, kinh đô của Champa. Một hệ thống các đền tháp được xây dựng ven lưu vực của sông Côn, trở thành những trung tâm tôn giáo của vương quốc như là cụm tháp Dương Long, tháp Cánh Tiên, cụm tháp Bánh ít, tháp Đôi, tháp Bình Lâm…[9]. Khi lên đến vùng thượng nguồn sông Côn (vùng Tây Nguyên) chúng ta cũng phát hiện các đền tháp, bi ký và những tác phẩm điêu khắc mang đậm nét dấu ấn văn hóa Ấn Độ và Phật giáo. Dấu tích tháp Yang Mum, tháp Dran Glai, Kuai King ở vùng Ayun Pa, các di vật tượng phật lưu giữ ở Bảo tàng tỉnh Gia Lai, bia đá ở huyện Đak Pơ… và khi di tích tháp Bang Keng được khai quật thì càng minh chứng rõ hơn về một thời kỳ lịch sử có sự ảnh hưởng, hiện diện của văn hóa Champa trên vùng đất Tây Nguyên.
Cho dù những dấu tích vật chất được phát hiện trên vùng Tây Nguyên chưa nhiều nhưng về tín ngưỡng cho thấy, khi văn hóa Champa phát triển và tỏa sáng, bằng mối quan hệ lâu đời với các tộc người, văn hóa Champa đã tìm đến Tây Nguyên và lan tỏa vào cộng đồng người ở đây. Dòng sông ven trung tâm tôn giáo có thể mang ý nghĩa sông thiêng theo ảnh hưởng của Ấn Độ giáo như sông Hằng hay không? Chúng ta chưa dám khẳng định một cách chắc chắn nhưng dòng sông ở đây chắc chắn là đường vận chuyển nguyên vật liệu khi xây dựng tháp. Bi vì các công trình kiến trúc nơi đây sử dụng khá nhiều nguyên liệu đá có kích thước lớn với trọng lượng nặng. Đặc biệt hơn nữa, hàng loạt các khu lò gốm cổ được khai quật nằm ở bộ phận lưu vực sông Côn: Gò Thị, Gò Sành, Gò Hời, Trường Cửu, Gò Cây Me, Gò Ké đã chứng tỏ rằng việc hình thành các khu gốm cổ này ở dọc sông Côn và các chi lưu của nó, là những vị trí thuận lợi cho việc lấy nguyên liệu, gần bến bãi thuận lợi cho bốc xếp nguồn nguyên liệu cũng như vận chuyển những sản phẩm của họ ra bên ngoài bằng nhiều phương tiện nhưng chủ yếu vẫn là đường thủy.
Từ khu vực Gò Thị (Vĩnh Thạnh), một điểm nằm dọc triền sông Côn, nơi đã phát hiện được khá nhiều mảnh sành của các loại hũ không tráng men, xuôi về hạ lưu sông Côn tại cửa Cách Thử (Cát Tiến- Phù Cát), cửa sông của một phụ lưu thuộc hạ lưu sông Côn đổ ra phía Bắc đầm Thị Nại cũng phát hiện nhiều mảnh gốm Chăm.
Như vậy, với những phát hiện khảo cổ học chứng tỏ sông Côn là con đường huyết mạch vận chuyển các sản phẩm gốm và nuôi sống các địa điểm sản xuất gốm, một loại sản phẩm được cho là khó vận chuyển vì dễ vỡ, cồng kềnhvà sự phát hiện những mảnh gốm ở những nơi này cũng chứng tỏ những bến sông chỉ mang tính chất trao đổi nội địa là chính, còn việc trao đổi bên ngoài với các vùng khác thì phải là cảng biển. Và thương cảng Thị Nại đóng vai trò là trung tâm chuyển tải hàng hóa đi khắp nơi. Nối dài của mạng lưới trao đổi nội địa, đó là các tuyến giao thương xuyên biên giới, và Thị Nại trở thành điểm cuối của tuyến đường băng qua đèo An Khê, Play Ku, và đến sông Mekong ở Stung Treng ở nơi mà hiện nay là phía Bắc Campuchia, nơi nối kết với mạng lưới giao thương tỏa ra từ Ayutthaya- Bangkok. Thương mại di chuyển dọc tuyến đường này, nối Thị Nại và Vijaya với những mối quan tâm buôn bán của người Khmer và người Xiêm. Tuyến đường cho đến thời các chúa Nguyễn vẫn còn được vận hành và có vai trò quan trọng[10].
Tống sử của Trung Quốc đã chỉ ra rằng vào cuối thế kỷ thứ X, hình thành những tuyến đường biển nối liền những địa điểm cư trú vùng biển ở quần đảo Philipin, bờ biển bắc của đảo Borneo và Champa. Cùng với những ghi chép trong sử sách Trung Quốc thì những năm gần đây các nhà khảo cổ học đã phát hiện con tàu đắm Pandanam bị đắm ở ngoài đảo Palawan, ở phía tây nam Philipin trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XV và đại đa số đồ gốm từ địa điểm gốm Gò Sành được sản xuất ở các trung tâm gốm cổ ngày nay thuộc tỉnh BìnhĐịnh. Với sự hiện diện của đồ gốm càng chứng minh mối quan hệ giao thương mật thiết đó.[11]
3.
Sự tồn tại của các đền tháp, bi ký và dấu ấn của các tác phẩm điêu khắc ấn Độ giáo và Phật giáo được tìm thấy tại vùng Tây Nguyên ngày nay đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng quan trọng về mối liên hệ giữa các trung tâm vương quyền của Champa ở ven biển với các cộng đồng cư dân ở miền ngược. Hơn nữa, vùng đất Champa tựa lưng vào vùng cao nguyên rộng lớn giàu sản vật “…miền Thượng du có những tài nguyên vô tận, Mun và những hương liệu quý khác, gỗ thơm có nhiều gỗ Hương và Bạch đàn, gỗ Phượng Hoàng, Long não và Đinh hương, Trầm mộc… Đậu Khấu bán đắc như vàng, lại còn có Hồi hương, Lô hội, mây trắng và tre… động vật có voi, hổ, tê giác, hưu trắng, trâu rừng, bò rừng, khỉ…”[12]nên mối quan hệ trao đổi hàng hóa chắc chắn đã được thiết lập giữa các cư dân vùng duyên hải với các làng bản ở cao nguyên[13]. Trong khi đó, ngoài những mặt hàng như gốm sứ, cá… thì một mặt hàng rất quan trọng mà cư dân miền núi không thể thiếu được chính là muối. Hình ảnh hạt muối đã xuất hiện trong văn nghệ dân gian phần nào làm rõ thêm sự trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi, trong bài ca về Dru Droe của người Sre “Chúng ta ở xứ Chàm về đây/ Mang về muối và cá đây này/ và các quà này của người con xứ này/ Hãy thức đêm nay, trắng đêm nay, hay trong câu đố của trẻ con người Sre: “Kẻ nào giống như người Chàm mang muối đến trước bình minh, mang nước khi mặt trời lên, và đến giữa buổi sáng thì ngừng không mang nữa?- sương buổi sớm mai[14].
Giáo sư Momoki Shiro cũng đã liệt kê ra những loại hàng hóa của Champa sử dụng trong những lần triều cống vương triều Trung Hoa cũng như trong xuất khẩu ra nước ngoài trong chuyên khảo “Champa, chỉ là một thế biển?”. Trong đó, các mặt hàng có nguồn gốc từ vùng cao nguyên chiếm số lượng lớn như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương là những mặt hàng thiết yếu cho xuất khẩu[15]. Tất cả những điều đó đã góp phần khẳng định sự tham gia của các cộng đồng cư dân miền ngược vào quá trình trao đổi hàng hóa với các trung tâm kinh tế ven biển và sông Côn đóng vai trò là con đường vận chuyển hàng hóa ngược xuôi vì đây là con đường thủy thông thương thuận lợi nhất nối thương cảng với vùng cao nguyên nên phát triển rất nhộn nhịp, lâm sản, gỗ, hương liệu, trầm hương, dược liệu khai thác từ cao nguyên theo đường sông chuyển về, hàng tiêu dùng, gốm sứ, cá, muối theo dòng sông đi lên, dòng sông trở thành con đường thương mại quan trọng tạo nên sức sống cho vùng đất này. Nhưng hiện nay, với số tài liệu còn quá ít ỏi nên chúng ta không thể biếtđược cơ chế vận hành như thế nào, điều này phải chờ đến những cuộc khai quật khảo cổ học, những cuộc nghiên cứu sâu.. để tiếp tục làm sáng tỏ.
Việc giữ mối liên hệ bền chặt và lâu dài giữa các vương triều Champa với các tộc người miền núi đảm bảo cho vương quốc Champa có thể duy trì được một sự cân bằng tương đối trong việc phát triển nền kinh tế, giữa kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp và kinh tế lâm nghiệp. Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa khi chúng có thể đảm bảo những sản phẩm thương mại cho vương quốc Champa, để Champa có thể duy trì những mối quan hệ thương mại, buôn bán với các quốc gia trong khu vực[16].
Như vậy, có thể nhận định rằng mối quan hệ giữa thương cảng Thị Nại và sông Côn là mối quan hệ tương tác. Trong đó thương cảng Thị Nại đóng vai trò như một trung tâm trung chuyển, tiếp nhận, trao đổi hàng hóa, mậu dịch hải thương trong và ngoài nước, trung tâm kinh tế của cả vùng Vijaya trong khi đó sông Côn đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải hàng hóa từ Tây Nguyên và các trung tâm sản xuất hàng hóa ven sông Côn đến thương cảng Thị Nại và từ Thị Nại tiến hành giao thương với thế giới bên ngoài qua đường biển, cũng từ Thị Nại các hàng hóa của thương thuyền nước ngoài đượcchuyển lên cho dân cư miền ngược. Ở vùng Bình Định ngày này vẫn còn lưu truyền câu ca:
Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le chở xuống mắm chuồn gửi lên
Với ý nghĩa đó, thương cảng Thị Nại đã trở thành một trung tâm vùng, một trung tâm giao thương nối kết các cộng đồng dân cư, các không gian sinh thái và kinh tế. Các nhánh sông Côn cùng các đường mòn dọc theo các dòng sông trở thành sợi dây liên kết giữa các không gian sinh thái và tộc người ấy.[17]Khi mối quan hệ giữa biển và sông là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của vùng thì biển không còn là thứ rào cản ngăn cách mà là gạch nối, trong khi dòng sông là con đường thiết yếu của thông tin liên lạc và vận chuyển văn hóa.
Dòng sông Côn giữ vai trò trọng yếu trong lịch sử Champa, là huyết mạch giao thông chính nối các vùng với nhau, giữa Vijaya với vùng cao nguyên giàu sản vật, đặc biệt vươn ra biển tạo nên những con đường giao thương giữa Vijaya với các vùng trong vương quốc Champa rộng lớn và quốc tế, là nền tảng cho sự thịnh vượng của thương cảng Thị Nại. Như vậy, một “riverine exchange network” đã được thiết lập theo dọc sông Côn. Sự thịnh vượng của thương cảng Thi Nại, cùng với đồng bằng trù phú dọc sông Côn đã góp phần làm cho Vijaya trở thành một tiểu quốc lớn nhất và thống trị các tiểu quốc khác trong vương quốc cổ Champa (thế kỷ X-XV).
  • Trần Phan Hoài Thi
Chú thích:
[1] Lê Tắc, 2002, An Nam chí lược, Nxb Thuận Hóa- Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, tr. 72
2Dương Văn Huy, 2006, Về những đợt thám hiểm của Trịnh Hòa ở Đông Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (77), tr.69-74.
3Brenneth Bronson, “Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes toward a Functional Modelof the Coastal State in Southeast Asia”, in trongEconomic Exchange and Social Interaction in SoutheastAsia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnography, edited by Karl L. Hutterer, University ofMichigan, 1977, tr. 39- 52.
4Nguyễn Hữu Thông, 2004, Tiếp cận vấn đề nghiên cứu văn hóa làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam, trong Thông tin khoa học, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Huế, số tháng 3, tr. 20.
5Trần Kỳ Phương, 2004, “Bước đầu tìm hiểu về địa- lịch sử vương quốc Chiêm Thành (Champa) ở miền Trung Việt Nam: với sự tham chiếu đặc biệt vào “hệ thống trao đổi ven sông” của lưu vực sông Thu Bồn ở Quảng Nam” trong Thông tin khoa học, Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Huế, số tháng 3, tr. 48-49.
6 Hà Văn Tấn- Phạm Thị Tâm, 1972, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 135.
7 Trần Quốc Vượng, 1998, Miền Trung Việt Nam và văn hóa Champa (Một cái nhìn địa- văn hóa), Nxb Văn hóa Dân tộc và Tạp chí VHNT, tr. 318.
8 Parmentier H, Danh mục miêu tả các di tích lịch sử Chàm ở Trung Bộ, Tư liệu viện khảo cổ học, tr. 8.
9 Lê Đình Phụng, 2002, Di tích văn hoá Champa ở Bình Định (Champa relics in Binh Định), Nxb Khoa học Xã hội.
10 Keith W.Taylor, 2006, Thuận Quảng và Bình Định trong cuộc xung đột vùng miền ở Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay, số 270, tr.8.
11 Allison Diem, Bằng chứng về quan hệ buôn bán gốm giữa Champa và Philipin in trong: Một thế kỷ khảo cổ học, Tập II, 2005, Nxb Khoa học xã hội, tr. 691- 700.
12G. Maspero, Vương quốc Chàm (Bản dịch tiếng Việt), tr. 11.
13 Bernard Gay, 1994, New Perspectives on the Ethnic Composition of Champa, Proceedings of the Seminar on Champa, Held at the University of Copenhaghen, on May 23, 1987, English Version, Pp.43-52.
14 Dam Bo, 2003, Miền đất huyền ảo, Nxb Hội nhà văn, tr. 184& 200.
15 Momoki Shiro, 1999, Champa, chỉ là một thế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề trong các tư liệu Trung Quốc), tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4, tr. 43- 48.
16 Dẫn theo Đỗ Trường Giang, Biển với lục địa- Thương cảng Thị Nại (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Nam Á thế kỷ X- XV; trong: Người Việt với Biển, Nxb Thế giới,2011.
[1]7 Đỗ Trường Giang, Biển với lục địa- Thương cảng Thị Nại (Champa) trong hệ thống thương mại Đông Nam Á thế kỷ X- XV; in trong Người Việt với Biển, Nxb Thế giới, 2011, tr. 312

Cù lao Phố - địa danh vang bóng một thời

Địa danh gắn liền với một nhân vật được vinh danh như một thần hoàng đã có công khai mở xứ Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ. Ông là một danh tướng người Hoa phục Nguyễn, có tài thao lược về quân sự, có đầu óc kinh doanh của một người Quảng Đông ( Trung Quốc).

Nhiều học giả nghiên cứu về ông còn cho rằng, nếu không xảy ra những biến cố lịch sử lớn lao, thì Biên Hòa (Cù lao Phố) xứ Đồng Nai sẽ là nơi tụ hội và phát triển thịnh vượng hơn tất cả nơi khác ở miền Nam. Bởi lẽ, những doanh nhân Cù lao Phố vì ly tán chiến tranh đã bỏ xứ này mà đi đến Chợ Lớn, Mỹ Tho lập nghiệp lưu danh đến ngày nay. Còn Cù lao Phố chỉ còn là một ký ức lịch sử, một phế tích hoang tàn kể từ đỉnh cao huy hoàng phát triển gần một thế kỷ.
Kỳ I. Người khai khẩn đất lập nên Cù Lao Phố sầm uất
Ông là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thượng Tài (?- 1720), người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao- Lôi- Liêm. Năm 1649, Triều Minh sụp đổ trong tay Hoàng đế Sùng Trinh dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Sấm Vương Lý Tự Thành. Cuộc tranh giành giang sơn và mỹ nhân Trần Viên Viên của Lý Tự Thành và Ngô Tam Quế đã dẫn đến cảnh “cõng rắn cắn gà nhà” của họ Ngô, tạo cơ hội cho nhà Mãn Thanh từ phương Bắc chiếm Bắc Kinh lập nên Triều Đại Thanh. Khoảng năm 1679, sau khi phất cờ “bài Mãn phục Minh” thất bại, bị quân Thanh truy kích, các lực lượng nổi dậy cuối cùng của triều Minh tại Quảng Đông và Đài Loan, Trần Thượng Xuyên đem hơn 3000 quân thân tín cùng gia quyến trên 50 chiếc thuyền từ đảo Hải Nam đến Đại Việt xin thuần phục, lánh nạn lâu dài. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã chấp nhận và tạo điều kiện cho cho Trần Thượng Xuyên vào khai khẩn xứ Đông Phố (Biên Hòa) lúc này còn hoang sơ, vắng vẻ. Sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có chép sự kiện này như sau: “Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1679), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Định và phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người với chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng… Triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai phá đất đai. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và Cửa Đại, cửa Tiểu, dừng trú tại xứ Mỹ Tho. Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai”. Sách Đại Nam Thực lục Tiền biên chép “Kỷ Mùi (1679), mùa Xuân tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến: Cao- Lôi- Liêm Tổng binh Trần Thượng Xuyên và Phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung (Thuận An) và Đà Nẵng, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin làm tôi tớ… Nay đất Đông Phố nước Chân Lạp phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa (Nguyễn Phúc Tần) theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng, trao cho quan chức đến ở đất Đông Phố”.

Đình Tân Lân (Xóm Mới, Biên Hòa) (1906), nơi thờ chính Danh tướng Trần Thượng Xuyên, người có công khai khẩn, mở mang vùng đất Cù lao Phố

Trước đây, năm 1673, ở Chân Lạp (Căm pu chia ngày nay) đã nổ ra cuộc tranh chấp quyền lực giữa một bên là hai anh em Ang Ji (Nặc Đài), Ang Sur (Nặc Thu) và bên kia là hai bác cháu Ang Tan (Nặc Tân), Ang Nan (Nặc Nộn). Phe Ang Tan- Ang Nan cầu cứu Chúa Nguyễn Phúc Tần. Năm 1674, Ang Tan chết, ba năm sau Ang Ji bị giết. Chúa Nguyễn giải hòa hai phe bằng cách phong cho Ang Sur làm Chính vương (đóng đô ở Udong tức Căm pu chia sau này) và Ang Nan làm Phó vương (đóng đô ở Prei Nokor tức Sài Gòn sau này).
Vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới Việt chỉ mới đến bờ trái sông Phan Rang, nên Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho người đưa thư đến cho Phó vương Ang Nan, yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Prei Nokor (Sài Gòn) và Ang Nan đã đồng ý. Kể từ đó, nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Định đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Cũng theo sách Đại Nam Thực Lục Tiền biên thì: “Binh thuyền Ngạn Định và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho, binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập”.
Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân (ngày nay là Bến Gỗ, thành phố Biên Hòa) lập nghiệp. Khi đó vùng đất này còn rừng rú hoang sơ. Họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển trên 60 cây số, nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản và phía Nam có thể thông ra biển Cần Giờ hay sang tận xứ Cao Miên. Nhìn thấy sự đắc địa của vị trí đất trên, nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố hợp cùng với nhóm dân người Việt đến trước, cùng nhau bắt tay khai khẩn đất sản xuất, mở cửa hiệu buôn bán. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định, tức Nam Bộ ngày nay. Từ sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo…Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả “Trần Thượng Xuyên chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quán rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”. Cảnh mua bán tấp nập, nhộn nhịp ở Cù lao Phố xưa, cũng được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành thông chí “Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (Cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ đọng. Đến ngày trở buồm về, gọi là “hồi đường”, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua giùm. Như thế, khách chủ đều tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn đúm vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại trở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Sau khi đến định cư khai khẩn trên vùng đất Bàn Lân (Bến Gỗ), nhóm người Hoa của Tổng binh Trần Thượng Xuyên đã nhận thấy Cù lao Phố có những điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán nên họ đã di chuyển về đây. Cù lao Phố là một bãi phù sa nằm giữa sông Đồng Nai “dài dặm dư, rộng 2/3 dặm, cách phía Đông trấn độ 3 dặm”. Phía Nam của cù lao là sông Phước Long, giữa dòng sông cách trên 4 dặm nửa thiên về phía Bắc “có đá cự tích, còn gọi là thạch than (thác đá hay đá hàn). Đây là mô đá gồ ghề lớn nhỏ chồng chất, có vực sâu, thế nước chảy xiết và sóng vỗ ào ạt. Phía Bắc của cù lao là sông Cát, còn gọi là Sa Hà hay Rạch Cát hoặc Hậu Giang, cách phía Đông trấn Biên Hòa 3 dặm rưỡi chảy quanh Cù lao Phố.
Một góc Cù Lao Phố, Biên Hòa (Đồng Nai)
Cù lao Phố còn có các tên là: Bãi Đại Phố, Giãn Phố và Cù Châu. “Cù Châu là nói địa thế khất khúc chạy tới như hình con hoa cù (rồng con có sừng) uốn khúc giỡn nước nên nhân đó gọi tên”. Với kinh nghiệm tư duy thương nghiệp, hàng hóa, tiền tệ khác hẳn tư duy nông nghiệp của người bản xứ, Trần Thượng Xuyên đã sớm phát hiện ra một ưu thế của Cù lao Phố, có vị trí quan trọng trong kinh doanh với đường thủy, đường bộ nối liền miền Trung, đường bộ lên Cao Miên (Cămpuchia) và đường thủy xuống Gia Định. Tuy nằm không gần biển, nhưng là nơi nước sâu, chảy nhanh, nên tiếp tục ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, xuống tận phía Nam, ra cửa Cần Giờ và có thể sang tận Cao Miên. Do đó phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển cư từ Bàn Lân về Cù lao Phố phát hoang, dựng nhà, lập bến, mở đường, xây dựng phố chợ.
Chỉ trong vài ba thập niên, đến đầu thế kỷ XVIII, những di dân người Hoa đã biến Cù lao Phố thành một thương cảng xuất nhập khẩu lớn, thu hút thuyền buôn Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây đến buôn bán và trao đổi hàng hóa. Quang cảnh Cù lao Phố (Nông Trại Đại Phố) được Trịnh Hoài Đức ghi lại “Ở đầu phía Tây bãi là Đại Phố. Khi mới khai thác, tướng quân Trần Thượng Xuyên chiêu tập lái buôn người Trung Quốc lập ra phố xá với nhà ngói, tường vôi, lầu cao chót vót, quán mấy tầng rực rỡ bên sông dưới ánh mặt trời, liên tục 5 dặm mở vạch ba đường phố. Phố lớn lát đá trắng, phố ngang lát đường đá ong, phố nhỏ lát đường đá xanh, bằng phẳng như đá mài. Khách buôn tụ họp đông, thuyền biển, thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một nơi đô hội. Nhà buôn to, giàu, tập trung ở đây nhiều nhất”. Việc buôn bán ở nơi thương cảng được tổ chức khá bài bản, khéo léo và mang tính chất kinh doanh lớn. Cũng theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì “phía Bắc ghềnh có vực sâu làm nơi trú ẩn cho tàu thuyền các nước. Tàu buôn đến đây, hạ neo xong là lên bờ thuê chỗ ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lấy đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá và mua bao tất cả hàng hóa xấu tốt, không bỏ xót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là “hồi Đường”, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người chủ hiệu buôn ấy cũng chiều ý mà mua giùm và chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ và khách chiếu theo hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã có nước ngọt tắm rửa sạch sẽ, lại không lo hà trùng ăn lũng ván thuyền, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Hàng hóa các chủ thuyền mua thường là những sản vật được sản xuất ở Đồng Nai như gạo, cá khô, sừng tê, ngà voi, gạc nai, các loại dược thảo ở phía Nam. Còn sản vật các chủ hàng buôn bán thường nhận mua là những sản phẩm tiêu dùng gồm tơ lụa, vải bố, dược phẩm cho đến những đồ xa xỉ trang trí như gạch ngói, sứ men, đá xây cột chùa, nhang đèn, vàng bạc… Hàng năm cứ đến tháng Một, tháng Chạp, người ta thường xay giã lúa thành gạo đem bán lấy tiền tiêu dùng vào những ngày lễ Tết. Còn từ cuối tháng Giêng trở đi, họ không còn thời giờ rảnh rỗi để xay giã lúa thóc. “Những lúc bình thường người ta chuyên chở gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, đoạn của người Tàu đem về may mặc, nên áo quần họ toàn những hàng hóa màu tươi tốt đẹp đẽ, ít khi họ dùng những áo quần bằng vải trắng thường” (Gia Định thành thông chí).
Nguồn hàng hóa hấp dẫn thương thuyền đến Cù lao Phố là lúa gạo. Lúa gạo ở Đồng Nai nhiều nên rất rẻ, 1 tiền (60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Cứ lường theo bát được gạt bằng miệng mà dân gian địa phương thường dùng thì ba bát ấy ngang 30 bát của Nhà nước. Một quan tiền đong được 300 bát đồng của Nhà nước (tức bát định chuẩn). Giá rẻ như vậy, các nơi khác chưa từng có”. Kế đến là nguồn gỗ quí dùng để làm tàu thuyền vì giao thông đường thủy là chủ yếu, Phủ Gia Định sản xuất nhiều gỗ tốt; tra xét sổ sách của cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên kê biên hai xứ là nguồn Đồng Môn cùng Quang Hóa thuộc huyện Phước Long có các thứ gỗ sao, trắc, dầu, giáng hương, gụ…
Những người Hoa theo Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa, ngoài những binh lính vẫn giữ nguyên đội ngũ “Long Môn” dưới quyền chỉ huy của ông, còn  có hàng loạt các quí tộc phong kiến và thương nhân giàu có cùng gia quyến quê ở Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến, Triều Châu... Ngoài một số sống tập trung ở Bàn Lân (Bến Gỗ), Cù lao Phố, còn có những người sống rải rác trong vùng Đồng Nai với tính cách là những đại lý thu mua nguyên vật liệu, hàng hóa cung cấp về Cù lao Phố như ở Tân Bản (lúa gạo), Mỹ Khánh, Bình Long (hàng vàng bạc), Chợ Đồn (nằm trong làng Bình Long xuất lu, hũ, cát, đá ong), Tân Mai, Vĩnh Thanh, Bình Trước, Bình Phước (lúa gạo), Đồng Bản, Thủ Đồn Xứ (gỗ quí, thú rừng), Bình Sơn (đá rửa dùng tô nhà), Phú Hội (xuất trà), An Lợi (sầu riêng), Long Tân (chuối), Phước An (sò huyết), Phước Khánh (gạo thơm), Tam An (tôm càng), Long Phước (soài, chuối)…
Gốm Đồng Nai
Cùng với sự phát đạt của thương mại, Cù lao Phố cũng là nơi tập trung nhiều nghề thủ công như dệt chiếu, dệt hàng tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường từ mía, làm bột, làm đồ gỗ gia dụng và chạm khắc gỗ đóng thuyền, làm pháo thăng thiên, nhuộm… Trong số các nghề nói trên, có những nghề truyền thống do những lưu dân Việt mang theo từ nơi quê cũ, nhưng cũng có những nghề do thợ thủ công Trung Quốc du nhập vào như nghề gốm, đúc đồng, dệt lụa, làm đồ mỹ nghệ vàng bạc… Các nghề này đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong dân gian như những địa danh “chợ Chiếu, xóm Cửi, xóm Lò Đúc, rạch Lò Gốm…”. Điều này nói lên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Cù lao Phố. Chính những yếu tố về dân cư (cuối thế kỷ XVII, số lượng dân đến khai phá, định cư đã lên đến 4 vạn hộ), về sự dồi dào sản vật và nguyên liệu của vùng Đồng Nai là những yếu tố quan trọng cho sự hình thành trung tâm thương mại - thương cảng Cù lao Phố đầu thế kỷ XVIII. Người Hoa không chỉ tập trung ở nơi thương cảng này, mà còn tạo ra một hệ thống đại lý thu mua và phân phối hàng hóa ăn sâu về các bến sông, bến chợ từ đầu nguồn cho đến nơi cửa biển. Tuy nhiên, sự thịnh vượng của thương cảng Cù lao Phố chỉ kéo dài đến nửa thế kỷ XVIII thì bắt đầu đi xuống. Bởi khi Cù lao Phố đã trở thành “xứ đô hội” của vùng đất mới thì tự nó cũng trở thành nơi diễn ra những cuộc tranh chấp về quyền lực chính trị.
Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)
Kỳ II. Sự suy tàn của Cù lao Phố và con đường binh nghiệp của danh tướng Trần Thượng Xuyên
Sự thịnh vượng và bình yên phát triển của Cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm (1679- 1776), thì xảy ra hai sự kiện lớn khiến cho một thương cảng, phố thị sầm uất trở nên điêu tàn. Sự kiện thứ nhất vào năm 1747, một nhóm thương nhân người Phúc Kiến (Trung Quốc) qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố giàu có, phồn thịnh nên nổi lòng tham, muốn  chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu bị quan quân chúa Nguyễn dẹp tan nhanh chóng, nhưng Cù lao Phố cũng đã gánh chịu hậu quả binh biến với nhiều thiệt hại nặng nề. Sự kiện thứ hai vào năm 1776, quân Tây Sơn đã thẳng tay đàn áp những người Hoa ở Cù lao Phố vì họ đã ủng hộ tiền của và che giấu Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) tránh sự truy lùng của nhà Tây Sơn. Việc này trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hòa Đức mô tả: “Nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước. Bởi vậy, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn (nay là Quận 5 và Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh) sinh sống và lập nghiệp… Kể từ đó, Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
Cầu Ghềnh dẫn vào Cù lao Phố
Trở lại với cuộc đời binh nghiệp của danh tướng Trần Thượng Xuyên. Ông không chỉ đóng góp to lớn trong việc khẩn hoang, mở đất và lập nên một phố thị giàu có ở Cù lao Phố, mà ông còn là một tướng giỏi của nhà Nguyễn trong các cuộc đánh trả quân xâm lăng vi phạm bờ cõi và gây loạn vùng biên viễn Tây Namnước Việt. Năm Mậu Thìn(1688), Phó tướng Hoàng Tiến làm phản giết chết chủ tướng Dương Ngạn Định ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng Hổ Oai tướng quân, dời đồn trú từ Mỹ Tho sang Nan Khê( nay là sông Vàm Nao, Chợ Mới, An Giang) đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận, bỏ việc triều cống và đắp 3 lũy là Bích Đôi, Cầu Nam và Nam Vang rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ chống lại sự xâm chiếm của Hoàng Tiến. Vua thứ nhì Chân Lạp là Nặc Nộn( đóng ở Sài Gòn) cấp báo lên Chúa Nguyễn. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn nổi giận, bèn cử tướng Mai Vạn Long ở Dinh Thái Khương giả hiệp quân cùng Hoàng Tiến đi đánh dẹp Nặc Thu, nhưng kỳ thực cũng để triệt hạ phiến quân phản loạn Hoàng Tiến. Việc này được sách Đại Nam thực lục ghi lại “ Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1689) Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Rạch Gầm( nay thuộc huyện Châu Thành,  Tiền Giang), sai người đến Nan Khê triệu Hoàng Tiến đem quân sở bộ đến. Vạn Long phải dùng mẹo đánh lừa Tiến đến hội. Quả nhiên, Hoàng Tiến trúng kế, cưỡi thuyền ra sông đến hội. Phục binh vùng dậy, bốn mặt đánh vào, Hoàng Tiến bỏ thuyền chạy, nhằm trốn về phía cửa biển Soài Rạp. Quân của Mai Vạn Long vào lũy Nan Khê, bắt được vợ con Tiến đều chém cả, chiêu tập dư chúng quân Long môn, sai bộ tướng là Trần Thượng Xuyên quản lãnh để làm Tiên phong. Thừa thắng Mai Vạn Long, Trần Thượng Xuyên tiến đánh Chân Lạp, đốt xích sắt ngang sông, liên tiếp lấy được ba lũy Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang, bắt Nặc Thu phải hàng phục…”
Chính điện thờ tướng Trần Thượng Xuyên (Đình Tân Lân, Biên Hòa)
Trong những năm 1699 và 1700, Trần Thượng Xuyên hai lần lãnh ấn cầm quân đến nơi biên giới. Tháng 7 năm 1699, Nặc Thu lại đắp lũy tại Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang. Trần Thượng Xuyên lúc bấy giờ đang đóng quân ở Doanh Châu( Vĩnh Long), cấp báo lên triều đình. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh đi vào Namhiệp quân đánh dẹp. Tháng 3 năm 1700, Trần Thượng Xuyên đích thân ra trận giao chiến với quân Chân Lạp, rồi tiến đánh lũy Bích Đôi và Nam Vang. Quân Chân Lạp tan vỡ… Sau trận tấn công này, vùng đất Biên Trấn( Biên Hòa), Phiên Trấn( Gia Định), Định Tường, Long Hồ( Vĩnh Long), An Giang đã được sát nhập vào Đại Việt. Lần thứ 3, sách Việt Nam sử lược chép: “ năm Giáp Ngọ(1714), quân của Nặc Ông Thâm đến lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm nguy cấp lắm. Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn( Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn Biên( Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Xiêm La(Thái lan). Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Lặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp”.
Như vậy là trong suốt 15 năm(1699-1714) , Trần Thượng Xuyên vừa giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở Đàng Trong, ổn định tình hình chính trị, quân sự ở Gia Định và Chân Lạp, vừa lo mở mang buôn bán ở Cù lao Phố. Ông mất vào ngày 23 tháng 10 âm lịch năm Canh Tý(1720) và được an táng ở làng Mỹ Lộc, xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. . Chúa Nguyễn đã phong cho ông là “ Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt”. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều phong ông làm “ Thượng đẳng thần”.
Bia ghi công Trần Thượng Xuyên trước đình Tân Lân.
Để tỏ lòng ngưỡng mộ và tưởng nhớ công ơn người đã có công khai phá, mở mang vùng đất Đồng Nai- Gia Định, nhân dân nơi đây gọi Trần Thượng Xuyên là “Đức Ông” và lập đền thờ ông. Trong đó có Đình Tân Lập( Xóm Mới) ở Biên Hòa là nơi thờ chính danh tướng Trần Thượng Xuyên, đã được Bộ Văn hóa- Thông tin- Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử- Kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo quyết định số 457, ngày 25 tháng 3 năm 1991.
Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)