Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

Cù lao Phố - địa danh vang bóng một thời

Địa danh gắn liền với một nhân vật được vinh danh như một thần hoàng đã có công khai mở xứ Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ. Ông là một danh tướng người Hoa phục Nguyễn, có tài thao lược về quân sự, có đầu óc kinh doanh của một người Quảng Đông ( Trung Quốc).

Nhiều học giả nghiên cứu về ông còn cho rằng, nếu không xảy ra những biến cố lịch sử lớn lao, thì Biên Hòa (Cù lao Phố) xứ Đồng Nai sẽ là nơi tụ hội và phát triển thịnh vượng hơn tất cả nơi khác ở miền Nam. Bởi lẽ, những doanh nhân Cù lao Phố vì ly tán chiến tranh đã bỏ xứ này mà đi đến Chợ Lớn, Mỹ Tho lập nghiệp lưu danh đến ngày nay. Còn Cù lao Phố chỉ còn là một ký ức lịch sử, một phế tích hoang tàn kể từ đỉnh cao huy hoàng phát triển gần một thế kỷ.
Kỳ I. Người khai khẩn đất lập nên Cù Lao Phố sầm uất
Ông là Trần Thượng Xuyên tự Trần Thượng Tài (?- 1720), người tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), nguyên là Tổng lãnh binh ba châu Cao- Lôi- Liêm. Năm 1649, Triều Minh sụp đổ trong tay Hoàng đế Sùng Trinh dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Sấm Vương Lý Tự Thành. Cuộc tranh giành giang sơn và mỹ nhân Trần Viên Viên của Lý Tự Thành và Ngô Tam Quế đã dẫn đến cảnh “cõng rắn cắn gà nhà” của họ Ngô, tạo cơ hội cho nhà Mãn Thanh từ phương Bắc chiếm Bắc Kinh lập nên Triều Đại Thanh. Khoảng năm 1679, sau khi phất cờ “bài Mãn phục Minh” thất bại, bị quân Thanh truy kích, các lực lượng nổi dậy cuối cùng của triều Minh tại Quảng Đông và Đài Loan, Trần Thượng Xuyên đem hơn 3000 quân thân tín cùng gia quyến trên 50 chiếc thuyền từ đảo Hải Nam đến Đại Việt xin thuần phục, lánh nạn lâu dài. Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã chấp nhận và tạo điều kiện cho cho Trần Thượng Xuyên vào khai khẩn xứ Đông Phố (Biên Hòa) lúc này còn hoang sơ, vắng vẻ. Sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có chép sự kiện này như sau: “Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1679), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Định và phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người với chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng… Triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai phá đất đai. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp và Cửa Đại, cửa Tiểu, dừng trú tại xứ Mỹ Tho. Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai”. Sách Đại Nam Thực lục Tiền biên chép “Kỷ Mùi (1679), mùa Xuân tháng Giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến: Cao- Lôi- Liêm Tổng binh Trần Thượng Xuyên và Phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung (Thuận An) và Đà Nẵng, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, nên đến xin làm tôi tớ… Nay đất Đông Phố nước Chân Lạp phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa (Nguyễn Phúc Tần) theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng, trao cho quan chức đến ở đất Đông Phố”.

Đình Tân Lân (Xóm Mới, Biên Hòa) (1906), nơi thờ chính Danh tướng Trần Thượng Xuyên, người có công khai khẩn, mở mang vùng đất Cù lao Phố

Trước đây, năm 1673, ở Chân Lạp (Căm pu chia ngày nay) đã nổ ra cuộc tranh chấp quyền lực giữa một bên là hai anh em Ang Ji (Nặc Đài), Ang Sur (Nặc Thu) và bên kia là hai bác cháu Ang Tan (Nặc Tân), Ang Nan (Nặc Nộn). Phe Ang Tan- Ang Nan cầu cứu Chúa Nguyễn Phúc Tần. Năm 1674, Ang Tan chết, ba năm sau Ang Ji bị giết. Chúa Nguyễn giải hòa hai phe bằng cách phong cho Ang Sur làm Chính vương (đóng đô ở Udong tức Căm pu chia sau này) và Ang Nan làm Phó vương (đóng đô ở Prei Nokor tức Sài Gòn sau này).
Vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới Việt chỉ mới đến bờ trái sông Phan Rang, nên Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho người đưa thư đến cho Phó vương Ang Nan, yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Prei Nokor (Sài Gòn) và Ang Nan đã đồng ý. Kể từ đó, nhóm Trần Thượng Xuyên đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Định đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Cũng theo sách Đại Nam Thực Lục Tiền biên thì: “Binh thuyền Ngạn Định và Hoàng Tiến vào cửa Soài Rạp đến đóng ở Mỹ Tho, binh thuyền của Thượng Xuyên và An Bình thì vào cửa Cần Giờ, đến đóng ở Bàn Lân (Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập”.
Ban đầu nhóm Trần Thượng Xuyên đến Bàn Lân (ngày nay là Bến Gỗ, thành phố Biên Hòa) lập nghiệp. Khi đó vùng đất này còn rừng rú hoang sơ. Họ đã phát hiện ra Cù lao Phố, một bãi sa bồi hoang sơ nằm giữa sông Hương Phước (một đoạn của sông Đồng Nai), trải dài trên 7 dặm, bề ngang bằng 2/3 bề dài. Tuy nằm cách biển trên 60 cây số, nhưng là nơi sông sâu, nước chảy, có thể ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản và phía Nam có thể thông ra biển Cần Giờ hay sang tận xứ Cao Miên. Nhìn thấy sự đắc địa của vị trí đất trên, nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên đã chuyển từ Bàn Lân đến Cù lao Phố hợp cùng với nhóm dân người Việt đến trước, cùng nhau bắt tay khai khẩn đất sản xuất, mở cửa hiệu buôn bán. Với biệt tài tổ chức, chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ trở thành thương cảng, trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định, tức Nam Bộ ngày nay. Từ sự phát đạt của thương nghiệp đã lôi kéo những ngành nghề thủ công khác đến như: dệt chiếu, tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường, làm bột, đồ gỗ gia dụng, chạm khắc gỗ, đóng thuyền, làm pháo…Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả “Trần Thượng Xuyên chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quán rực rỡ trên bờ sông, liền lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ: nhai lớn giữa phố lót đá trắng, nhai ngang lót đá ong, nhai nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, người buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội…”. Cảnh mua bán tấp nập, nhộn nhịp ở Cù lao Phố xưa, cũng được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành thông chí “Các thuyền ngoại quốc tới nơi này (Cù lao Phố) bỏ neo, mướn nhà ở, rồi kê khai các số hàng trong chuyến ấy cho các hiệu buôn trên đất liền biết. Các hiệu buôn này định giá hàng, tốt lẫn xấu, rồi bao mua tất cả, không để một món hàng nào ứ đọng. Đến ngày trở buồm về, gọi là “hồi đường”, chủ thuyền cần mua món hàng gì, cũng phải làm sẵn hóa đơn đặt hàng trước nhờ mua giùm. Như thế, khách chủ đều tiện lợi và sổ sách phân minh. Khách chỉ việc đàn đúm vui chơi, đã có nước ngọt đầy đủ, lại khỏi lo ván thuyền bị hà ăn, khi về lại trở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Sau khi đến định cư khai khẩn trên vùng đất Bàn Lân (Bến Gỗ), nhóm người Hoa của Tổng binh Trần Thượng Xuyên đã nhận thấy Cù lao Phố có những điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán nên họ đã di chuyển về đây. Cù lao Phố là một bãi phù sa nằm giữa sông Đồng Nai “dài dặm dư, rộng 2/3 dặm, cách phía Đông trấn độ 3 dặm”. Phía Nam của cù lao là sông Phước Long, giữa dòng sông cách trên 4 dặm nửa thiên về phía Bắc “có đá cự tích, còn gọi là thạch than (thác đá hay đá hàn). Đây là mô đá gồ ghề lớn nhỏ chồng chất, có vực sâu, thế nước chảy xiết và sóng vỗ ào ạt. Phía Bắc của cù lao là sông Cát, còn gọi là Sa Hà hay Rạch Cát hoặc Hậu Giang, cách phía Đông trấn Biên Hòa 3 dặm rưỡi chảy quanh Cù lao Phố.
Một góc Cù Lao Phố, Biên Hòa (Đồng Nai)
Cù lao Phố còn có các tên là: Bãi Đại Phố, Giãn Phố và Cù Châu. “Cù Châu là nói địa thế khất khúc chạy tới như hình con hoa cù (rồng con có sừng) uốn khúc giỡn nước nên nhân đó gọi tên”. Với kinh nghiệm tư duy thương nghiệp, hàng hóa, tiền tệ khác hẳn tư duy nông nghiệp của người bản xứ, Trần Thượng Xuyên đã sớm phát hiện ra một ưu thế của Cù lao Phố, có vị trí quan trọng trong kinh doanh với đường thủy, đường bộ nối liền miền Trung, đường bộ lên Cao Miên (Cămpuchia) và đường thủy xuống Gia Định. Tuy nằm không gần biển, nhưng là nơi nước sâu, chảy nhanh, nên tiếp tục ngược lên phía Bắc khai thác nguồn hàng lâm thổ sản, xuống tận phía Nam, ra cửa Cần Giờ và có thể sang tận Cao Miên. Do đó phần lớn nhóm người Hoa đã chuyển cư từ Bàn Lân về Cù lao Phố phát hoang, dựng nhà, lập bến, mở đường, xây dựng phố chợ.
Chỉ trong vài ba thập niên, đến đầu thế kỷ XVIII, những di dân người Hoa đã biến Cù lao Phố thành một thương cảng xuất nhập khẩu lớn, thu hút thuyền buôn Nhật Bản, Trung Hoa và các nước phương Tây đến buôn bán và trao đổi hàng hóa. Quang cảnh Cù lao Phố (Nông Trại Đại Phố) được Trịnh Hoài Đức ghi lại “Ở đầu phía Tây bãi là Đại Phố. Khi mới khai thác, tướng quân Trần Thượng Xuyên chiêu tập lái buôn người Trung Quốc lập ra phố xá với nhà ngói, tường vôi, lầu cao chót vót, quán mấy tầng rực rỡ bên sông dưới ánh mặt trời, liên tục 5 dặm mở vạch ba đường phố. Phố lớn lát đá trắng, phố ngang lát đường đá ong, phố nhỏ lát đường đá xanh, bằng phẳng như đá mài. Khách buôn tụ họp đông, thuyền biển, thuyền sông, tránh gió bỏ neo, lớn nhỏ sát nhau, là một nơi đô hội. Nhà buôn to, giàu, tập trung ở đây nhiều nhất”. Việc buôn bán ở nơi thương cảng được tổ chức khá bài bản, khéo léo và mang tính chất kinh doanh lớn. Cũng theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì “phía Bắc ghềnh có vực sâu làm nơi trú ẩn cho tàu thuyền các nước. Tàu buôn đến đây, hạ neo xong là lên bờ thuê chỗ ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lấy đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá và mua bao tất cả hàng hóa xấu tốt, không bỏ xót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là “hồi Đường”, chủ thuyền có yêu cầu mua giúp vật gì thì người chủ hiệu buôn ấy cũng chiều ý mà mua giùm và chở đến trước kỳ giao hẹn, hai bên chủ và khách chiếu theo hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã có nước ngọt tắm rửa sạch sẽ, lại không lo hà trùng ăn lũng ván thuyền, khi về lại chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Hàng hóa các chủ thuyền mua thường là những sản vật được sản xuất ở Đồng Nai như gạo, cá khô, sừng tê, ngà voi, gạc nai, các loại dược thảo ở phía Nam. Còn sản vật các chủ hàng buôn bán thường nhận mua là những sản phẩm tiêu dùng gồm tơ lụa, vải bố, dược phẩm cho đến những đồ xa xỉ trang trí như gạch ngói, sứ men, đá xây cột chùa, nhang đèn, vàng bạc… Hàng năm cứ đến tháng Một, tháng Chạp, người ta thường xay giã lúa thành gạo đem bán lấy tiền tiêu dùng vào những ngày lễ Tết. Còn từ cuối tháng Giêng trở đi, họ không còn thời giờ rảnh rỗi để xay giã lúa thóc. “Những lúc bình thường người ta chuyên chở gạo thóc ra bán tại thành Phú Xuân để đổi chác hay mua sắm những hàng vóc nhiễu, đoạn của người Tàu đem về may mặc, nên áo quần họ toàn những hàng hóa màu tươi tốt đẹp đẽ, ít khi họ dùng những áo quần bằng vải trắng thường” (Gia Định thành thông chí).
Nguồn hàng hóa hấp dẫn thương thuyền đến Cù lao Phố là lúa gạo. Lúa gạo ở Đồng Nai nhiều nên rất rẻ, 1 tiền (60 đồng) đong được 16 đấu thóc. Cứ lường theo bát được gạt bằng miệng mà dân gian địa phương thường dùng thì ba bát ấy ngang 30 bát của Nhà nước. Một quan tiền đong được 300 bát đồng của Nhà nước (tức bát định chuẩn). Giá rẻ như vậy, các nơi khác chưa từng có”. Kế đến là nguồn gỗ quí dùng để làm tàu thuyền vì giao thông đường thủy là chủ yếu, Phủ Gia Định sản xuất nhiều gỗ tốt; tra xét sổ sách của cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên kê biên hai xứ là nguồn Đồng Môn cùng Quang Hóa thuộc huyện Phước Long có các thứ gỗ sao, trắc, dầu, giáng hương, gụ…
Những người Hoa theo Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa, ngoài những binh lính vẫn giữ nguyên đội ngũ “Long Môn” dưới quyền chỉ huy của ông, còn  có hàng loạt các quí tộc phong kiến và thương nhân giàu có cùng gia quyến quê ở Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến, Triều Châu... Ngoài một số sống tập trung ở Bàn Lân (Bến Gỗ), Cù lao Phố, còn có những người sống rải rác trong vùng Đồng Nai với tính cách là những đại lý thu mua nguyên vật liệu, hàng hóa cung cấp về Cù lao Phố như ở Tân Bản (lúa gạo), Mỹ Khánh, Bình Long (hàng vàng bạc), Chợ Đồn (nằm trong làng Bình Long xuất lu, hũ, cát, đá ong), Tân Mai, Vĩnh Thanh, Bình Trước, Bình Phước (lúa gạo), Đồng Bản, Thủ Đồn Xứ (gỗ quí, thú rừng), Bình Sơn (đá rửa dùng tô nhà), Phú Hội (xuất trà), An Lợi (sầu riêng), Long Tân (chuối), Phước An (sò huyết), Phước Khánh (gạo thơm), Tam An (tôm càng), Long Phước (soài, chuối)…
Gốm Đồng Nai
Cùng với sự phát đạt của thương mại, Cù lao Phố cũng là nơi tập trung nhiều nghề thủ công như dệt chiếu, dệt hàng tơ lụa, gốm, đúc đồng, nấu đường từ mía, làm bột, làm đồ gỗ gia dụng và chạm khắc gỗ đóng thuyền, làm pháo thăng thiên, nhuộm… Trong số các nghề nói trên, có những nghề truyền thống do những lưu dân Việt mang theo từ nơi quê cũ, nhưng cũng có những nghề do thợ thủ công Trung Quốc du nhập vào như nghề gốm, đúc đồng, dệt lụa, làm đồ mỹ nghệ vàng bạc… Các nghề này đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong dân gian như những địa danh “chợ Chiếu, xóm Cửi, xóm Lò Đúc, rạch Lò Gốm…”. Điều này nói lên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Cù lao Phố. Chính những yếu tố về dân cư (cuối thế kỷ XVII, số lượng dân đến khai phá, định cư đã lên đến 4 vạn hộ), về sự dồi dào sản vật và nguyên liệu của vùng Đồng Nai là những yếu tố quan trọng cho sự hình thành trung tâm thương mại - thương cảng Cù lao Phố đầu thế kỷ XVIII. Người Hoa không chỉ tập trung ở nơi thương cảng này, mà còn tạo ra một hệ thống đại lý thu mua và phân phối hàng hóa ăn sâu về các bến sông, bến chợ từ đầu nguồn cho đến nơi cửa biển. Tuy nhiên, sự thịnh vượng của thương cảng Cù lao Phố chỉ kéo dài đến nửa thế kỷ XVIII thì bắt đầu đi xuống. Bởi khi Cù lao Phố đã trở thành “xứ đô hội” của vùng đất mới thì tự nó cũng trở thành nơi diễn ra những cuộc tranh chấp về quyền lực chính trị.
Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)
Kỳ II. Sự suy tàn của Cù lao Phố và con đường binh nghiệp của danh tướng Trần Thượng Xuyên
Sự thịnh vượng và bình yên phát triển của Cù lao Phố chỉ kéo dài được 97 năm (1679- 1776), thì xảy ra hai sự kiện lớn khiến cho một thương cảng, phố thị sầm uất trở nên điêu tàn. Sự kiện thứ nhất vào năm 1747, một nhóm thương nhân người Phúc Kiến (Trung Quốc) qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố giàu có, phồn thịnh nên nổi lòng tham, muốn  chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài. Cuộc bạo loạn do Lý Văn Quang (tự xưng là Giản Phố Đại vương) cầm đầu bị quan quân chúa Nguyễn dẹp tan nhanh chóng, nhưng Cù lao Phố cũng đã gánh chịu hậu quả binh biến với nhiều thiệt hại nặng nề. Sự kiện thứ hai vào năm 1776, quân Tây Sơn đã thẳng tay đàn áp những người Hoa ở Cù lao Phố vì họ đã ủng hộ tiền của và che giấu Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) tránh sự truy lùng của nhà Tây Sơn. Việc này trong sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hòa Đức mô tả: “Nơi đây biến thành gò hoang, sau khi trung hưng người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước. Bởi vậy, các thương gia người Hoa rủ nhau xuống vùng Chợ Lớn (nay là Quận 5 và Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh) sinh sống và lập nghiệp… Kể từ đó, Cù lao Phố đánh mất vai trò là trung tâm thương mại của Đàng Trong mà thay vào đó là Chợ Lớn và Mỹ Tho.
Cầu Ghềnh dẫn vào Cù lao Phố
Trở lại với cuộc đời binh nghiệp của danh tướng Trần Thượng Xuyên. Ông không chỉ đóng góp to lớn trong việc khẩn hoang, mở đất và lập nên một phố thị giàu có ở Cù lao Phố, mà ông còn là một tướng giỏi của nhà Nguyễn trong các cuộc đánh trả quân xâm lăng vi phạm bờ cõi và gây loạn vùng biên viễn Tây Namnước Việt. Năm Mậu Thìn(1688), Phó tướng Hoàng Tiến làm phản giết chết chủ tướng Dương Ngạn Định ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng Hổ Oai tướng quân, dời đồn trú từ Mỹ Tho sang Nan Khê( nay là sông Vàm Nao, Chợ Mới, An Giang) đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận, bỏ việc triều cống và đắp 3 lũy là Bích Đôi, Cầu Nam và Nam Vang rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ chống lại sự xâm chiếm của Hoàng Tiến. Vua thứ nhì Chân Lạp là Nặc Nộn( đóng ở Sài Gòn) cấp báo lên Chúa Nguyễn. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn nổi giận, bèn cử tướng Mai Vạn Long ở Dinh Thái Khương giả hiệp quân cùng Hoàng Tiến đi đánh dẹp Nặc Thu, nhưng kỳ thực cũng để triệt hạ phiến quân phản loạn Hoàng Tiến. Việc này được sách Đại Nam thực lục ghi lại “ Tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (1689) Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Rạch Gầm( nay thuộc huyện Châu Thành,  Tiền Giang), sai người đến Nan Khê triệu Hoàng Tiến đem quân sở bộ đến. Vạn Long phải dùng mẹo đánh lừa Tiến đến hội. Quả nhiên, Hoàng Tiến trúng kế, cưỡi thuyền ra sông đến hội. Phục binh vùng dậy, bốn mặt đánh vào, Hoàng Tiến bỏ thuyền chạy, nhằm trốn về phía cửa biển Soài Rạp. Quân của Mai Vạn Long vào lũy Nan Khê, bắt được vợ con Tiến đều chém cả, chiêu tập dư chúng quân Long môn, sai bộ tướng là Trần Thượng Xuyên quản lãnh để làm Tiên phong. Thừa thắng Mai Vạn Long, Trần Thượng Xuyên tiến đánh Chân Lạp, đốt xích sắt ngang sông, liên tiếp lấy được ba lũy Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang, bắt Nặc Thu phải hàng phục…”
Chính điện thờ tướng Trần Thượng Xuyên (Đình Tân Lân, Biên Hòa)
Trong những năm 1699 và 1700, Trần Thượng Xuyên hai lần lãnh ấn cầm quân đến nơi biên giới. Tháng 7 năm 1699, Nặc Thu lại đắp lũy tại Bích Đôi, Cầu Nam, Nam Vang. Trần Thượng Xuyên lúc bấy giờ đang đóng quân ở Doanh Châu( Vĩnh Long), cấp báo lên triều đình. Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh đi vào Namhiệp quân đánh dẹp. Tháng 3 năm 1700, Trần Thượng Xuyên đích thân ra trận giao chiến với quân Chân Lạp, rồi tiến đánh lũy Bích Đôi và Nam Vang. Quân Chân Lạp tan vỡ… Sau trận tấn công này, vùng đất Biên Trấn( Biên Hòa), Phiên Trấn( Gia Định), Định Tường, Long Hồ( Vĩnh Long), An Giang đã được sát nhập vào Đại Việt. Lần thứ 3, sách Việt Nam sử lược chép: “ năm Giáp Ngọ(1714), quân của Nặc Ông Thâm đến lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm nguy cấp lắm. Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên Trấn( Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn Biên( Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Xiêm La(Thái lan). Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Lặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp”.
Như vậy là trong suốt 15 năm(1699-1714) , Trần Thượng Xuyên vừa giúp Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở Đàng Trong, ổn định tình hình chính trị, quân sự ở Gia Định và Chân Lạp, vừa lo mở mang buôn bán ở Cù lao Phố. Ông mất vào ngày 23 tháng 10 âm lịch năm Canh Tý(1720) và được an táng ở làng Mỹ Lộc, xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. . Chúa Nguyễn đã phong cho ông là “ Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt”. Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị đều phong ông làm “ Thượng đẳng thần”.
Bia ghi công Trần Thượng Xuyên trước đình Tân Lân.
Để tỏ lòng ngưỡng mộ và tưởng nhớ công ơn người đã có công khai phá, mở mang vùng đất Đồng Nai- Gia Định, nhân dân nơi đây gọi Trần Thượng Xuyên là “Đức Ông” và lập đền thờ ông. Trong đó có Đình Tân Lập( Xóm Mới) ở Biên Hòa là nơi thờ chính danh tướng Trần Thượng Xuyên, đã được Bộ Văn hóa- Thông tin- Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử- Kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo quyết định số 457, ngày 25 tháng 3 năm 1991.
Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét