Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn


Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn

 
Đỗ Bang (Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế)
Chiến tranh Trịnh - Nguyễn vào thế kỷ XVII trở thành thị trường tiêu thụ vũ khí và nguyên liệu cho các cường quốc thương mại của thế giới hồi bấy giờ. Cuộc chiến tranh này cũng trở thành đối trọng về kinh tế để chúa Nguyễn vươn lên tự khẳng định mình trước sức ép của quân đội chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nhờ chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, nhất là sử dụng nguồn lao động hợp lý và triệt để cùng với chính sách sử dụng người Hoa có hiệu quả; tạo điều kiện cho người Nhật, người Hoa đến cư trú và lập phố, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh thương nghiệp và mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài.

Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn

Chiến tranh Trịnh - Nguyễn vào thế kỷ XVII trở thành thị trường tiêu thụ vũ khí và nguyên liệu cho các cường quốc thương mại của thế giới hồi bấy giờ. Cuộc chiến tranh này cũng trở thành đối trọng về kinh tế để chúa Nguyễn vươn lên tự khẳng định mình trước sức ép của quân đội chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nhờ chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, nhất là sử dụng nguồn lao động hợp lý và triệt để cùng với chính sách sử dụng người Hoa có hiệu quả; tạo điều kiện cho người Nhật, người Hoa đến cư trú và lập phố, đặc biệt là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh thương nghiệp và mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài. Nhờ các chính sách kinh tế đầy ấn tượng nói trên nên sau một thế kỷ kể từ lúc chúa Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm đất Thuận Hoá (1558), rồi vùng đất Thuận - Quảng (1570), sau đó là Đàng Trong trở thành vùng đất có nền kinh tế phát triển không những không thua kém Đàng Ngoài mà còn là đầu mối thương mại đối với các nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới.
2. Về tình hình thế giới
Trong hơn 40 năm:1592-1635, là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chính sách mở cửa, hàng trăm thương thuyền được Mạc phủ cấp “ châu ấn” (Shuin sen) để xuất bến buôn bán với nước ngoài góp phần tạo nên một hiện tượng thương mại sôi động ở các nước Đông Nam Á trong đó có Hội An của Đàng Trong.
Về phía Trung Quốc, sau hơn hai thế kỷ thực hiện chính sách “ hải cấm” để độc quyền ngoại thương thông qua con đường “thương mại - triều cống” nhằm nâng cao vị thế chính trị đối với các nước trong khu vực không những đã không mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể mà nhà nước không kiểm soát được thị trường vì nạn buôn lậu quốc tế và nạn cướp biển hoành hành khắp nơi. Do vậy, nên đến năm 1567, nhà Minh buộc phải tháo gỡ bằng cách cấp giấy phép cho các thương thuyền đến các vùng biển Đông Nam Á để buôn bán. Đến năm 1592 có 110 thuyền được cấp Wenyin, mở ra một triển vọng trong việc buôn bán với Đàng Trong.
Từ sau năm 1644, khi nhà Mãn Thanh đã thắng nhà Minh thực hiện một chính sách thống trị và kỳ thị người Hán trên lãnh thổ Trung Quốc nên rất nhiều di thần nhà Minh và doanh nhân Trung Quốc đã xin nhập cư ở các nước Đông Nam Á trong đó Đàng Trong.
Thế kỷ XVII cũng là thế kỷ ra đời chủ nghĩa tư bản phương Tây mà đầu tiên là cuộc cách mạng tư sản Hà Lan đã tạo nên làn sóng cạnh tranh thị trường không những giữa các nước tư bản phương Tây mà với các nước trong khu vực châu Á vốn có truyền thống thương mại lâu đời như Trung Quốc, Nhật Bản. Đó là một thách thức nghiệt ngã, nhưng cũng là thời cơ hiếm có để các chúa Nguyễn ở Đàng Trong thực hiện chính sách ngoại thương, thúc đẩy sự phát triển kinh tế hàng hoá và tiến hành đô thị hoá theo hướng thành lập các phố cảng trong thời đại hàng hải của thế giới.
II. Các đô thị tiêu biểu
Trên đất Đàng Trong đã hình thành các trung tâm thương mại để cho ra đời các đô thị cổ từ thời vương quốc Phù Nam nay còn để lại dấu tích kiến trúc của nền văn hóa Óc Eo, xuất hiện từ thế kỷ thứ III ở tỉnh An Giang, mở rộng là cả vùng đất miền Tây Nam Bộ. Vùng đất Thuận Quảng đã xuất hiện một Lâm Ấp phố từ thế kỷ thứ V- X của vương quốc Chămpa nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, nay còn để lại nhiều dấu tích qua hệ thống các giếng cổ và nền móng công trình đô thị ở Trung Phường, xã Duy Nghĩa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam . Cũng có một cảng Thi Nại hoạt động từ thế kỷ X-XV còn để lại dấu vết công trình kiến trúc mà chúng tôi đã phát hiện vào năm 1986, nay ở xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Vào thời Đại Việt, người phương Tây được xem là đầu tiên thăm dò thị trường nước ta đã đến vùng đất Quảng vào năm 1523 là Duarte Coelho (Bồ Đào Nha). Trước khi rời xứ, ông đã tạc trên núi đá Cù Lao Chàm một hình thánh giá lớn, có ghi niên hiệu và chính danh của minh . Hơn 10 năm sau, một người Bồ Đào Nha khác là Antonio De Faria đến vùng biển Quảng Nam, ông đã quan sát phố xá và sự nhộn nhịp ghe thuyền ở vùng cảng này. Ông thấy: Một thành phố có tường bao quanh gần 10.000 nóc nhà. Đó là nơi neo đậu 40 chiếc thuyền buồm lớn (Jonques) đến hai hay ba cầu tàu và xung quanh có khoảng 2.000 thuyền buồm với nhiều kích thước khác nhau . Như vậy, khả năng có một thế hệ đô thị thứ hai sau Lâm Ấp phố của Chămpa và trước phố Hội An thời chúa Nguyễn ở vùng biển Đà Nẵng- Hội An mà hiện nay chúng ta chỉ nhận biết qua một số tư liệu hiếm hoi do người nước ngoài ghi chép.
Vào nửa sau thế kỷ thứ XVI, tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán tập trung ở vùng cảng Thuận Hóa, nơi chúa Nguyễn Hoàng chọn làm dinh phủ (nay thuộc tỉnh Quảng Trị); chỉ riêng năm 1577, có 13 thuyền buôn người Phúc Kiến (Trung Quốc) đến cập bến ở đây để buôn bán.
Thuyền buôn Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XVI cũng theo cửa Việt lên buôn bán ở khu vực gần dinh của chúa mà đội thuyền 5 chiếc của Bạch Tần Hiển Quý trong sự kiện thâm nhập vào vùng biển Thuận Hóa bị chúa Nguyễn ngộ nhận cho quân đánh tan vào năm 1585 là một trường hợp buôn bán không chính thức giữa thương nhân Nhật Bản với chúa Nguyễn trước thời Mạc phủ mở cửa (1592).
Năm 1613, thương gia người Bồ Đào Nha là Ferdinand Costa đến Dinh Cát để yết kiến chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi). Cơ hội này, Chúa Sãi nhờ Ferdinand Costa vận động thương nhân người Bồ đến buôn bán ở dinh của chúa.
Bản đồ của Alexandre De Rhodes vẽ giữa thế kỷ XVII có tên Cua Say (tức Cửa Sãi) được xác định tọa độ 16040 là cảng chính hồi bấy giờ của xứ Thuận Hóa . Đây là nơi được sử sách triều Nguyễn xác nhận: “Thuyền buôn các nước đến nhiều, trấn trở nên một đô thị lớn “.
Vào cuối thế kỷ XVI, trên vùng đất Thuận Quảng của chúa Nguyễn đã manh nha ra đời các đô thị đáp ứng cho nhu cầu lưu trú và buôn bán của thương nhân nhưng đến nay rất khó xác minh trên thực địa vì đã qua hơn 5 thế kỷ thay đổi dâu bể nên chúng tôi xem đó là tiền đề để khảo cứu và giới thiệu các phố cảng Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn, Hà Tiên của đất Đàng Trong.
1. Hội An
Vào năm 1980, khi bắt đầu khảo sát Hội An chúng tôi đã chú ý đến các địa danh “sông Đò”, “bàu Dầu”; với các di vật như mảnh thuyền, cột buồm, neo tàu, tre, gỗ để cừ bờ sông... Chúng tôi xác định bờ sông cũ Hội An từ Cồn Tàu ở xã Cẩm Châu cắt dọc thành phố Hội An theo đường chính diện qua đường Trần Phú hiện nay đến hai phường Cẩm Phô, Thanh Hà cách bờ sông hiện thời chừng 100-200 mét. Với chiều dài hơn 4 km đó, ngày xưa là nơi đỗ của các thuyền buôn mà cảng chính là ở Dương thương Hội quán, nay là Trung Hoa Hội quán ở trên con đường Trần Phú.
Từ nửa sau thế kỷ XVI, khi nền thương mại phương Tây đang ồ ạt dồn về phương Đông để tìm kiếm thị trường, lệnh “hải cấm” của nhà Minh cũng bị bãi bỏ (1567), chính sách mở cửa của Mạc phủ Nhật Bản được ban hành (1592). Cũng trong thời gian này, chúa Nguyễn Hoàng và trấn thủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc Nguyên đã viết nhiều thư kêu gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Hội An, một địa chỉ có thương hiệu hấp dẫn “ Faifo” trở thành một trung tâm thương mại hàng đầu của nước ta thu hút thương khách nhiều nước đến buôn bán và lưu trú, đặc biệt là thương nhân Nhật Bản.
Sự thu nhận người Nhật nhập cư ở Hội An của chúa Nguyễn trước hết nhằm giải quyết nhu cầu bức thiết cho một số thương nhân Nhật theo Thiên chúa giáo bị Nhật hoàng trục xuất và sau đó đóng cửa không cho họ quay lại chính quốc. Sau khi có chính sách mở cửa (1592), thương nhân Nhật Bản đến Hội An ngày càng đông. Đồng thời, thương nhân Trung Quốc thời nhà Minh bỏ lệnh “hải cấm” cũng đến Hội An và có yêu cầu ở lại lâu dài để buôn bán với thương nhân Nhật Bản.
Một lý do khách quan khác để Hội An trở thành đô thị quốc tế với sự lưu trú lâu dài của giới thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc là các thương vụ tấp nập diễn ra trên đất Hội An chỉ 6 tháng đầu mỗi năm vào mùa khô. Đến cuối mùa hè các thuyền căng buồm để gió mùa tây-nam đưa về đất bắc; Hội An trở nên hoang vắng. Trước tình hình đó, phủ chúa phải có giải pháp nhằm thỏa mãn yêu cầu cho thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc cũng chính lợi ích của chính quyền sở tại là cho phép họ chọn một nơi gần thương cảng Hội An để lập phố buôn bán và cư trú lâu dài. Từ đó ở Hội An đã hình thành hai khu phố tự trị của người Nhật và người Hoa.
Cơ ngơi của đô thị Hội An vào năm 1618 được Cristoforo Borri mô tả như sau: “ Vì cho tiện việc hội chợ, chúa Nguyễn cho phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà cửa theo tỷ lệ người của họ để dựng nên một đô thị. Đô thị này gọi là Faifo và nó khá lớn. Chúng tôi có thể nói có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của người Nhật. Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập quán của mỗi nước “.
Vào thời điểm nói trên ở vùng đất Quảng Nam, Borri cũng cho biết chúa Nguyễn cũng tiếp nhận nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha và Hà Lan đến buôn bán và dự định cấp cho người Bồ ở vùng cận cảng Đà Nẵng 3-4 dặm đất để lập phố với những tiện nghi và ưu đãi như chúa Nguyễn đã dành cho người Nhật và người Hoa.
Trong hội thảo quốc tế về Hội An năm 1990, Ogura Sadao đã cung cấp bản đồ có ghi vị trí chùa Hà Nam (của người Nhật) vào thế kỷ XVII tại Hội An, được xác định vị trí như sau:
- Phía đông là phố Nhật, nằm ở hạ lưu sông.
- Phía tây là Đường Nhân phố (phố người Hoa), nằm ở thượng lưu sông.
- Phía nam là sông lớn (sông Thu Bồn lúc đó).
- Phía bắc là An Nam phố (tức phố người Việt).
Đó là diện mạo của đô thị Hội An vào đầu thế kỷ XVII.
- Phố Nhật: Phố Nhật ở vị trí làng Hoài Phô, một làng cổ lâu đời nên con sông Thu Bồn đoạn chảy qua phố Hội An còn gọi là sông Hoài. Địa danh Faifo cũng bắt nguồn từ tên làng, tên sông đó.
Làng Hoài Phô được ghi tên trong sách Ô châu cận lục (1555) . Vào thế kỷ XVIII, làng đổi tên là Hoa Phô ; về sau đổi thành làng Sơn Phô. Sơn Phô hiện thuộc xã Cẩm Châu, thành phố Hội An.
Người Nhật đến mua 20 mẫu đất của làng Hoài Phô và An Mỹ để xây dựng phố xá, sinh sống; lập một ngôi chùa lấy tên là Tùng Bổn . Trong tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) được khắc ghi vào năm 1640 mà chúng tôi đã khảo sát và công bố năm 1985 cho thấy có 9 lần nhắc đến địa danh dinh Nhật Bổn và một lần nhắc đến địa chỉ dinh Tùng Bổn, nơi người Nhật sinh sống tại Hội An và cúng rất nhiều tiền cho ngôi chùa này . Đây là thời kỳ cực thịnh của phố Nhật tại Hội An nên người phương Tây gọi Hội An là đô thị Nhật Bản. Vị thị trưởng đầu tiên được công nhận vào năm 1618 là Furamoto Yashiro; có nhiều thị trưởng có quyền hành rất lớn ở Đàng Trong như Simonosera. Có vị thị trưởng đã can thiệp với chúa Nguyễn ban đặc ân cho Alexandre de Rhodes trong thời kỳ bị cấm đạo Thiên chúa.
Theo một bức tranh tô màu còn giữ tại nhà dòng họ Chaya ở Nhật cho thấy phố Nhật dài khoảng 320 mét, gồm hai dãy phố và gần một cái chợ bán đủ các mặt hàng họp thành “đô thị Nhật Bản” chạy dọc theo trục một con đường nằm bên một hải cảng có nhiều tàu thuyền đang cập bến.
Vào năm 1695, khi Thomas Bowyear, thương gia người Anh đến tại Hội An chỉ còn thấy 5 gia đình người Nhật sinh sống. Cùng thời điểm đó, nhà sư Thích Đại Sán đến Hội An không thấy ghi chép về phố Nhật, người Nhật trong tập bút ký Hải ngoại kỷ sự. Năm 1981, chúng tôi cũng tìm thấy 4 ngôi mộ cổ của người Nhật tại Hội An cũng ghi năm qua đời vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XVII.
Phố Nhật ở Hội An ra đời và thịnh vượng trong nửa đầu thế kỷ XVII và tồn tại đến cuối thế đó.
- Phố Khách: Năm 1618, lúc Cristoforo Borri mô tả về phố Nhật và phố Khách tại Hội An thì Hoa thương bắt đầu quy tụ về Hội An. Ngoài bức hoành phi có niên hiệu Thiên Khải -Tân Dậu niên (tức 1621) của một gia đình người Hoa ở trên đường Trần Phú còn giữ, được xem là di vật cổ xưa nhất của phố Khách. Tư liệu còn cho biết ở vào thời thịnh hành của phố Khách, người Hoa đã xây dựng một tổ đình lấy tên là Cẩm Hà cung vào năm 1626, ở ranh giới làng Cẩm Phô và Thanh Hà, nằm về phía tây của thành phố Hội An hiện nay. Điều đó đúng với vị trí phố Đường Nhân mà Ogura Sadao cung cấp thông tin từ ngôi chùa Hà Nam và cũng đúng với ký ức tồn cổ ở Hội An mà tiêu biểu là Châu Phi Cơ, cho rằng: Người Nhật ở đầu đường phía mặt trời mọc của thành phố còn người Trung Hoa lập phố vào phía cuối đường mặt trời lặn.
Từ phố Nhật lên phố Khách phải qua một con khe, người Nhật đã xây dựng nên một chiếc cầu gọi là cầu Nhật Bản (Lai Viễn kiều), người Hoa làm chùa trên đó để thờ Bắc Đế nên gọi là chùa Cầu.
Kết quả khai quật khảo cổ học của các chuyên gia Nhật Bản vào mùa hè năm năm 1998 và 2006 ở phường Cẩm Phô (trường PTCS Nguyễn Duy Hiệu), xung quanh chùa Cầu, tìm thấy nhiều đồ gốm Cảnh Đức (Trung Quốc), gốm Hizen (Nhật Bản) lẫn với đồ gốm, đồ sành Việt Nam có niên đại thế kỷ XVII. Kết quả này cho chúng ta khẳng định về thị trường gốm thương mại quốc tế tại Hội An và dấu tích cư trú sớm của người Nhật và người Hoa chứ chưa đủ cứ liệu để xác định phố Nhật và phố Khách tại Hội An qua tư liệu khảo cổ học.
- Phố Hội An:
Tấm bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá vẽ (1630-1655) đã xuất hiện các tên Hội An phố, Hội An kiều...đã giúp cho chúng ta khẳng định phố Hội An, cầu Hội An (cầu Nhật Bản) ra đời từ nửa đầu thế kỷ XVII.
An Nam phố tức phố Hội An trong sơ đồ chùa Hà Nam qua các tư liệu cho chúng ta xác định vị trí của làng cổ Hội An mà trung tâm là đình làng Hội An - đền Ông Voi - đường Lê Lợi hiện nay.
Đó là khu đô thị của người Việt ra đời trong nửa đầu thế kỷ XVII cùng tồn tại với phố Nhật và phố Khách.
Sau khi nhà Mãn Thanh đánh bại nhà Minh (1644), lượng Hoa thương di trú ở Hội An rất đông, phố Khách ở Thanh Hà dần bị giải thể. Họ tiến dần về phía đông mua 13,5 mẫu đất của làng Cẩm Phô, Hội An, Cổ Trai để lập phố buôn bán. Lúc đầu họ lập phố từ phía tây cầu Nhật Bản, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai đến chùa Ông (Quan Công miếu- có ghi niên đại Khánh Đức - Quý Tỵ, tức năm 1653), nay ở trên đường Trần Phú. Các văn khế mua bán nhà đất ở đường Trần Phú có niên đại vào nửa sau thế kỷ XVII đều ghi Lâm sa thổ phố. Và có sự xen cư giữa người Việt và người Hoa trên đất làng Hội An; đó là trường hợp Ngô Vãng Nương mua 3 sào đất ở xứ Hổ Bì của Trịnh Hồng Quang vào năm 1692 giá 60 lạng bạc . Đường Trần Phú hồi đó đã trở thành khu phố đông đúc của người Hoa với hai dãy phố xuất hiện như Bowyear đã mô tả (1695): “Hải cảng này chỉ có một con đường phố lớn trên bờ sông, hai bên có hai dẫy nhà 100 nóc, toàn là người Trung Hoa ở “ . Cũng vào năm 1695, Thích Đại Sán đến Hội An đã ghi lại: ” Thẳng bờ sông một con đường dài 3-4 dặm, gọi là Đại Đường Nhai. Hai bên phố ở liền khít rịt. Chủ phố thảy là người Phúc Kiến vẫn còn ăn mặc theo lối tiền triều”.
Vào thế kỷ XVIII, dãy nhà phố hai bên đường Trần Phú hiện nay mới được xây dựng kiên cố như một số văn khế nhà đất thời Cảnh Hưng, Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh mà chúng tôi đã tìm được đều có ghi tường gạch, lợp ngói, bắc giáp đại lộ, nam cận đại giang...
Phố người Hoa ở Hội An ngày dược mở rộng cùng với sự tăng trưởng doanh thương của họ theo thời gian. Vào năm Gia Long 13 (1814), toàn thể đất của làng Minh Hương là 17 mẫu 7 sào 10 thước.
2. Thanh Hà
Với vị trí trên bến, dưới thuyền tiện lợi, cư dân ở đây có truyền thống buôn bán nên ở Thanh Hà từ trước thế kỷ XVI đã xuất hiện một chợ làng, nơi hội tụ hàng hoá của các vùng lân cận . Sự lớn lên của trung tâm thương mại Thanh Hà đồng thời với sự phát triển kinh tế hàng hoá trong nước và tác động của luồng mậu dịch quốc tế, cùng chế độ cát cứ và công cuộc mở đất Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Đón được luồng thương mại thế giới nhất là Hoa thương, Thanh Hà trở thành một thương cảng lớn nhất, cửa ngõ giao thương hàng đầu của thời Kim Long- Phú Xuân thịnh trị vào thế kỷ XVII-XVIII. Thanh Hà là địa chỉ hấp dẫn thương khách nhiều nước Trung Quốc, Nhật Bản của châu Á, của các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp...
Năm 1636, ngay lúc mới chuyển dinh từ Phước Yên vào Kim Long chúa Nguyễn Phúc Lan đã cho phép thành lập phố Thanh Hà. Trong một văn bản còn lưu tại địa phương cho biết :" Chúa Thượng vương sau khi dời phủ về Kim Long bèn cho phép tiền hiền chúng ta kiến thiết khu chợ nơi giáp giới hai xã Thanh Hà và Địa Linh".
Lúc mới thành lập, phố Thanh Hà chủ yếu là người Việt cư trú để buôn bán với nước ngoài phần lớn là Hoa thương. Đến giữa thế kỷ XVII, người Hoa di dân được chúa Nguyễn cho lập phố ở Thanh Hà mà thế hệ đầu tiên có Trần Dưỡng Thuần (1610-1688), quê quán phủ Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến.
Từ đó đến cuối thế kỷ thứ XVII, nhiều Hoa thương tiếp tục đến Thanh Hà cư trú, nhất là sau năm 1685, nhà Thanh cho phép các thuyền buôn Trung Quốc xuất bến đến các nước láng giềng buôn bán.
Trong hồ sơ lưu trữ của làng Minh Hương cho biết vào năm Thịnh Đức thứ 6 (1658), chúa Nguyễn Phúc Tần " thi ân cho lập phố tại đất đồn thổ thuộc làng Thanh Hà và Địa Linh là 1 mẫu 2 sào 5 thước 4 tấc" . Đó chính là khu phố thương mại của Thanh Hà bước vào thời thịnh vượng.
Vào khoảng giữa thế kỷ XVII, Giáo sĩ Alexandre de Rhodes có lưu trú ở Thanh Hà. Theo ông, đó là một thành phố, tuy không lớn bằng dinh phủ Kim Long mà ông cho là thành phố lớn; ông viết: " Tôi không dám ở thành phố lớn. Tôi thuê nhà tại thành phố nhỏ gần đó sau cơn hoả tai xãy ra lớn nhất ở đây.
Trong thời kỳ thịnh đạt, phố Thanh Hà phần lớn nằm trong tay Hoa thương nên gọi là" Đại Minh khách phố".
Năm 1685, Hoa thương xây dựng Thiên Hậu cung (còn gọi là chùa Bà) ngay trên điểm cư trú và buôn bán đầu tiên của mình để làm nơi tế tự chung cho Hoa kiều, cũng là mốc giới phía bắc của phố Thanh Hà . Phố Thanh Hà mở rộng dần về phía nam, thương khách mua đất của làng Địa Linh để lập phố và xây dựng đền thờ Quan Thánh (còn gọi là chùa Ông) ở vị trí tận cùng phía nam của phố để làm đền thờ chung và cũng là mốc giới giữa phố Thanh Hà và làng Địa Linh . Đây là dấu vết lâu đời của phố Thanh Hà trong thời kỳ phát triển và cũng là mốc giới có ý nghĩa lịch sử để chúng ta xác định trên thực địa của phố Thanh Hà xưa. Chiều dài của phố Thanh Hà gần 1 km (từ chùa Bà ở làng Thanh Hà đến chùa Ông ở làng Địa Linh), chu vi của phố khoảng 2km, bao gồm cả chợ và khu dân cư, nằm ở vị trí 160 18’ vĩ độ bắc, cách phủ Kim Long ở phía tây- nam 5 km và cách cửa Thuận An 10 km ở phía đông.
Phố Thanh Hà phát triển trên cơ sở phồn thịnh của cảng và chợ Thanh Hà cùng tầng lớp cư dân mà chủ yếu là Hoa thương chuyên nghề buôn bán.
Thanh Hà trong thế kỷ XVII, chỉ hai dẫy phố lợp tranh nằm về phía tây con đường làng Minh Thanh hiện nay, hướng chính quay mặt ra bờ sông. Sau khi chiếm được bãi đất bồi, Hoa thương dựng lên một dẫy nhà đối diện quay lưng ra bờ sông, lấy con đường của làng Thanh Hà làm đường phố chính. Năm 1700, Hoa thương mới được phép xây phố bằng gạch và lợp ngói để tránh hoả hoạn. Phố bao gồm những cửa hàng, cửa hiệu, các đại lý xuất nhập khẩu và những nhà cho thuê dành cho thương khách ở xa, chủ yếu là thương nhân Trung Quốc mới đến, hoặc thương nhân giữa hai mùa mậu dịch trong thời áp đông (từ tháng 10 cuối năm đến tháng 3 năm sau).
Vào giữa thế kỷ XVIII, Pierre Poivre đến Huế và khảo sát tình hình buôn bán ở Thanh Hà, có nhận xét : " Vào mùa mưa, các đường phố chật hẹp, lầy lội, chỉ có phố hay khu Trung Hoa có một lối đi rộng và lát gạch. Dọc hai bên đường người ta dựng lên những nhà gạch lợp ngói khá sung túc".
Phố Thanh Hà xây dựng theo lối đơn tuyến trên một trục giao thông có sẳn làm đường phố chính. Hai dãy phố đối diện dần dần được hình thành, phía sau là đồng ruộng, trước mặt là bến cảng của sông Hương; một điều kiện chủ yếu cho phố cảng ra đời.
Hồi ức về phố Thanh Hà vào đầu thế kỷ XIX, thời kỳ thoái trào của khu thương mại này nhưng nhà phố vẫn giữ được dáng vẽ của thời thịnh vượng, Michel Đức Chaigneau đã mô tả khá chi tiết: ” Nhà cửa vừa là cửa hàng, vừa là nhà kho, phòng ngủ cũng chính là để tiếp khách. Rộng hẹp có khác nhau, nhưng cấu trúc nhà phố Thanh Hà thường theo một mẫu thống nhất là hẹp về bề ngang và mở sâu ra đàng sau...Nhà cửa phần lớn lợp ngói, có cái là một tòa nhà, xung quanh có hành lang. Có cái chỉ một gian phòng, đàng sau có sân vườn và nhà bếp. Cách xây cất phòng ốc và trang hoàng bên trong theo một lối giống nhau. Phòng chính khoảng nửa chiều dài và mở một cửa ra vào. Đàng tước chia làm hai gian hàng, đàng sau chia làm hai chái để làm phòng ngủ và kho chứa”.
3. Nước Mặn
Ở Đàng Trong, sau hai đô thị cảng Hội An và Thanh Hà là Nước Mặn ra đời rất sớm được ghi trong Hồng Đức bản đồ với tên gọi “ Nước Mặn hải môn”, là trung tâm buôn bán xuất nhập khẩu không những cho phủ Quy Nhơn mà cả các dinh, phủ ở phía nam.
Nước Mặn được Alexandre de Rhodes vẽ trên bản đồ vào giữa thế kỷ XVII với tên phiên âm là Nehorman. Tên gọi này xuất phát từ chữ của Cristoforo Borri ghi lại trong tập ký sự của mình vào năm 1618. Borri chỉ đích danh đó là một thành phố (ville). Ông viết: “Vị tổng trấn liền ra lệnh xây dựng cho chúng tôi một cái nhà rất tiện nghi ở thành phố (ville) Nehorman” .
Tên gọi Nước Mặn không được ghi trong các bộ chính sử Việt Nam thời phong kiến nhưng được ghi trong gia phả nhiều người Hoa sinh sống ở đây.
Đầu thế kỷ XVII, chúng ta thấy có luồng buôn bán giữa Hội An và Nước Mặn với một số trung tâm thương mại quốc tế được thể hiện trên bản đồ số 24 vẽ vào năm 1608 có ghi hai địa danh được thương nhân nước ngoài thường đến buôn bán là Hải Phố (tức Hội An) và Thi Nại (tức Nước Mặn hồi bấy giờ) nằm trên đường hàng hải đến với Vuconva.
P.B.Lafont cũng cho biết, trong các cảng ở Đàng Trong thì Binai (tức Thi nại) thuyền buôn các nước Phương Tây, Malasia và một số nước khác thường đến buôn bán.
Tháng 7 năm 1618, C. Borri đến Nước Mặn, dưới con mắt của vị Giáo sĩ này Nước Mặn đã là một thành phố. Ông viết: “ Chúng tôi lại leo lên lưng voi và lên đường với một đoàn tùy tùng đông đảo để đi đến thành phố Nước Mặn” . Ông cũng cho biết đây là thành phố khá rộng:” Thành phố trải dài 5 dặm và rộng 0,5 dăm ” . Đó là thời kỳ thịnh vượng của phố cảng Nước Mặn.
Vào giữa thế kỷ XVIII, Pierre Poivre đến Đàng Trong còn đánh giá rất cao về phố cảng Nước Mặn, ông viết: “Tại tỉnh Quy Nhơn có một thương cảng khác gọi là Nước Mặn là một cảng tốt, an toàn được thương nhân lui tới nhiều nhưng kém hơn Faifo, lại không thuận tiện vì quá xa kinh thành mà các thuyền trưởng thì nhất thiết phải đi đến kinh thành nhiều lần và phải đi ròng rả 6 ngày đường”.
Nhưng rất tiếc vào thế kỷ sau không thấy sử sách nào còn ghi về phố cảng Nước Mặn. Sách Đại Nam nhất thống chí bản soạn thời Tự Đức không ghi chép về phố Nước Mặn, cũng không có tên trong danh mục 63 chợ lớn nhỏ trong tỉnh Bình Định.
Cho đến tháng 4 năm 1986, trong đợt khảo sát về đô thị cổ ở các tỉnh miền Trung, chúng tôi mới phát hiện dấu tích của phố cảng Nước Mặn và thông báo kết quả tại Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghĩa Bình (Quy Nhơn-1986) và trong hội nghị thông báo khảo cổ học năm 1991 tại Hà Nội.
Từ tấm bia bằng gỗ chúng tôi phát hiện ở đền Quan Thánh lập năm 1837 (đường Bạch Đằng, thành phố Quy Nhơn) có ghi tên một người họ Nguyễn ở phố Nước Mặn cúng tiền để xây dựng ngôi đền này, chúng tôi phải rất khó khăn mới lần tìm đến xã Phước Quang, huyện Tuy Phước vì không một tấm bản đồ nào ghi tên Nước Mặn; đến đây mới biết còn lưu truyền chiếc cầu ngói và ngôi chợ mang tên Nước Mặn. Cạnh chợ, một bãi hoang nhưng chúng tôi phát hiện ra dấu tích của phố cổ tại ngôi nhà ông Huỳnh Xưng Chiến còn một bức tường dài 5,2 mét, cao 0,9 mét và dày 0,3 mét làm bằng vôi, gạch, đá ong, mật mía, mạch bằng vôi...Tìm thấy dấu tích đền Quan Thánh (chùa Ông) chỉ còn lại bức bình phong, trước cửa còn ba trụ đá tán, một chiếc đỉnh lư bị hỏng nhưng còn 3 chữ Quan Thánh đế.
Thiên Hậu cung (chùa Bà) được xây dựng ở về phía đông của phố. Tuy bị hỏng hơn 80% do chiến tranh nhưng đây là di tích quan trọng nhất của phố Nước Mặn còn lại. Chúng tôi tìm thấy một chiếc đỉnh lư bằng hợp kim có 3 chân cao 47 cm, đường kính 46 cm, được đúc từ lò Vạn Minh (Trung Quốc) vào năm Đinh Tỵ niên hiệu Gia Khánh (1797). Mới biết đến cuối thế kỷ XVIII, phố Nước Mặn vẫn còn hoạt động và có quan hệ giao lưu thương mại với Trung Quốc.
Về phía đông- bắc của chợ là khu mộ cổ.
Khuôn viên của phố Nước Mặn từ bờ Cầu Ngói đến bến Cây Da. Bến cảng từ Cầu Ngói đến chùa Bà của con sông Âm phủ. Khu phố được khoanh vùng trên thực địa chiều dài hơm 1 km, chiều ngang khoảng 500 m; ngày xưa thuộc làng Lạc Hòa và Vĩnh An (trước đó gọi là Minh Hương) sau nhập chung gọi là An Hòa.
Từ thế kỷ XVIII trở về trước khi cửa Kẻ Thử còn tấp nập thuyền ghe ra vào buôn bán. Tàu thuyền qua đầm Thị Nại vào sông Côn đi qua các nhánh sông Âm Phủ, Cây Da rồi lên tận Cầu Ngói để trao đổi hàng hóa với thương nhân ở phố Nước Mặn. Các Giáo sĩ Bozomi, Pina, Augustin... đến đây truyền giáo (7-1618) cũng kể lại về xây dựng ngôi nhà thờ ở phố Nước Mặn như sau:” Quan trấn thủ cho các thừa sai một ngôi nhà bằng gỗ rộng rãi ở phố Nước Mặn. Ông dùng voi đưa các linh mục đến nhà mới, từ đó các linh mục có cơ sở hoạt động và được dân chúng kính nể. Cũng năm đó, thánh đường được dựng sẵn ở phố Nước Mặn và ráp trong vòng một ngày trước sự bỡ ngỡ và thán phục của các nhà truyền giáo“.
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX khi mạch đứt gảy ở duyên hải Bình Định hoạt động, cửa Kẻ Thử bị cát bồi ghe thuyền không ra vào được, phù sa của sông Côn cũng không thoát ra biển làm lắng tụ ở phía bắc đầm Thị Nại, các nhánh sông Âm Phủ, Cây Da bị cạn nước mặn không lên đến chợ, thuyền không đến được Cầu Ngói, phố Nước Mặn suy tàn. Những thương nhân ở phố Nước Mặn tản về Gò Bồi, vào Quy Nhơn hoặc lên An Thái đẻ kinh doanh.
Nước Mặn ngày nay là một làng quê, không còn phố- cảng; chợ là một bãi đất hoang trống trải lều quán tiêu điều. Nhưng âm vang về các họ đại phú như Ngụy, Từ, Khưu, Lý, Khổng, Lâm, Huỳnh... trong đó có ông Khách Sáu chuyên buôn bạc được nhân dân truyền tụng về một ông Khách Bạc họ Ngụy giàu có ở Nước Mặn xa xưa.
Năm 2005, Bảo tàng tỉnh Bình Định tổ chức đào thám sát khảo cổ học phố cảng Nước Mặn đã phát hiện nhiều gốm sứ của Trung Quốc có nguồn gốc từ Phúc Kiến và gốm sứ Hizen của Nhật Bản đều có niên đại thế kỷ XVII-XVIII là một sự thừa nhận về phố cảng Nước Mặn với vai trò mậu dịch quốc tế dưới thời các chúa Nguyễn.
4. Hà Tiên
Mạc Cửu- một trung thần của nhà Minh đã rời Trung Quốc sang Hà Tiên kinh doanh và trở nên giàu có. Mạc Cửu đã chiêu dân các vùng Cà Mau, Rạch Giá và đảo Phú Quốc lập thành 7 xã thôn . Trước uy thế của chính quyền Đàng Trong, vào năm 1708, Mạc Cửu ra Phú Xuân gặp chúa Nguyễn và xin được thần phục. Chúa Nguyễn Phúc Chu đồng ý và trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh trấn Hà Tiên . Hà Tiên, một vị trí chiến lược kinh tế và quân sự ở vùng đất tây- nam đất nước, một khu đô thị mới ra đời vào cuối thế kỷ XVII, một cảnh quan cẩm tú trở thành một bộ phận lãnh thổ của xứ Đàng Trong.
Ngày 18 tháng 8 năm 2003, khi chúng tôi đến khảo sát đền thờ " Mạc Linh Công" ở Hà Tiên. Ngoài văn bia ghi về Mạc Cửu và con cháu họ Mạc lập nên đất Hà Tiên, chúng tôi chú ý phần chép tiểu sử Mạc Cửu như sau:" Ông người huyện Hải Phong, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Sau khi nhà Minh dứt, năm 1680 Mạc Cửu 17 tuổi đã vượt biển đến Chân Lạp, được giao chức Ốc Nha. Thấy đất Mang Khảm đông đảo, người các nước buôn bán sầm uất, ông xin vua Chân Lạp đến đó để buôn bán và khuyến khích mở mang nông nghiệp, chiêu tập lưu dân lập 7 xã thôn Phú Quốc, Vũng Thơm, Trảng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau và Hà Tiên , không mấy chốc trở nên giàu có.
Năm 1687, quân Xiêm cướp phá Hà Tiên, ông bị bắt đưa về Xiêm 13 năm sống ở cảng Vạn Tuế Sơn.
Năm 1700, nhân lúc Xiêm có loạn, ông trốn về.
Năm 1705, ông ở tại Hà Tiên.
Năm 1708, chúa Nguyễn tiếp đoàn sứ gỉa của Mạc Cửu, chúa chấp nhận cho ông làm quan trưởng Hà Tiên, ban cho ông chức Tổng binh. Ông lập thành quách, bảo vệ đất đai thành một nơi trấn nhậm".
Hà Tiên còn được gọi là Phương Thành, một phố thị đông vui, tấp nập khách thương nhiều nước ra vào buôn bán. Mạc Cửu cho lập chùa Tam Bảo (1720-1730) và đền Quan Công (1725-1730) hiện là hai cổ tự danh tiếng của đất Hà Tiên.
Năm 1735, Mạc Cửu chết , được chúa Nguyễn tặng Khai tướng Thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công. Lăng mộ của ông được xây dựng ở Hà Tiên rất uy nghiêm và đã được công nhận di tích Quốc gia vào ngày 6-2-1989.
Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cử làm Đô đốc trấn thủ Hà Tiên. Chúa Nguyễn Phúc Chú cấp cho 3 chiếc thuyền long bài được miễn thuế, sai xuất dương để mua các của vật quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi . Thiên Tứ cho đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành xây luỹ, mở phố chợ, khách buôn các nước đều họp đông. Lại với những người văn học, mở Chiêu anh các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng hoạ, có 10 bài vịnh Hà Tiên " . Lê Quý Đôn có viết: " Tôi từng thấy bản khắc 10 bài vịnh Hà Tiên, đều do Tứ đề mà các văn nhân Thuận Hoá- Quảng Nam cùng nhau hoạ vần, không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương được".
Là một người có khả năng kinh doanh, Mạc Cửu đến đất Hà Tiên lúc tuổi còn thanh niên, ông đã chiêu dân từ Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc... để lập làng dựng phố, buôn bán làm ăn. Từ năm 1708, khi Hà Tiên trở thành lãnh thổ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và dòng họ Mạc được chúa Nguyễn trao cho con cháu kế thế giữ chức Tổng trấn, Hà Tiên nhanh chóng trở thành một đô thị lớn ở đất phương Nam. Thành quách được xây dựng, chùa chiền được tạo lập, phố xá được mở rộng, chợ búa tấp nập thương khách nhiều nước đến mua bán. Chúa Nguyễn còn cấp thuyền, miễn thuế để đi buôn bán với ngoại quốc và ưu tiên cho họ Mạc được phép đúc tiền để tiện tiêu dùng trong bối cảnh sự phát triển thương mại quốc tế. Hà Tiên trở thành vùng đô thị trọng điểm của khu vực với sự phát triển văn học, hình thành một nền văn hóa đô thị đặc sắc.
Trước đây các bộ sách giáo khoa lịch sử các cấp học đều phê phán chúa Nguyễn, chúa Trịnh do tham vọng cầm quyền đã gây ra họa chia cắt đất nước và nội chiến; điều đó đúng nhưng chưa đủ. Cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn cũng là một trong những động lực tự cường, tự vệ để các chúa Nguyễn không ngừng mở đất về phương nam, phát triển kinh tế, xây dựng đô thị, mở cửa giao lưu với nhiều nước trên thế giới.
Đô thị Đàng Trong ra đời là hệ quả của chính sách tiến bộ của các chúa Nguyễn đón nhận đúng thời cơ thương mại quốc tế và di dân đô thị đang phát triển. Tầm nhìn đó đã vượt xa các nguyên thủ phương Đông cùng thời lấy làng xã làm nền tảng, nông dân làm chỗ dựa, nông nghiệp làm trọng tâm và cấm vận là chủ yếu. Sự ra đời và phát triển đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn là một hiện tượng lịch sử đáng được ghi nhận để tìm ra nguyên nhân và đặc điểm của nó.
Đàng Trong là nơi giàu về tài nguyên thiên nhiên, có nhiều tiềm năng kinh tế, có nhiều sông ngòi và nhiều cảng biển thuận tiện cho việc lập cảng và ghe thuyền cập bến. Các chúa Nguyễn đã tận dụng mọi khả năng lao động trong nhân dân kể cả chính sách ưu ái với nguồn lao động và đầu tư của người nước ngoài để phát triển kinh tế và đô thị. Các đô thị đều dựa trên cảng sông để phát triển đã tạo ra một thế hệ phố cảng rất đặc sắc nhưng chủ yếu dựa vào thiên nhiên của thời tiền công nhiệp. Khi cảng sông, cửa biển có biến đổi thì phố cũng thay đổi theo và cuối cùng bị suy tàn. Chỉ còn lại Hội An và Hà Tiên là duy trì được sức sống của một dạng đô thị có dáng dấp thời trung đại cần được trân trọng bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử trong tương lai.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét