Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

Dấu ấn người Hoa ở Đồng Nai

Dấu ấn người Hoa ở Đồng Nai 

* Phan Đình Dũng
Đồng Nai được xem  là địa đầu trong tiến trình khai khẩn của Nam Bộ. Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh là người “điểm nhãn” về mặt pháp lý trong việc khẳng định biên cương ở vùng đất phương Nam trong diễn trình lịch sử nước Việt. Sự có mặt, khai phá của cư dân Việt là nhân tố quan trọng và sự khai phá của nhóm cộng đồng người Hoa là nhân tố tích cực, cả hai đã góp phần tạo nên cơ sở “dân khai mở trước, nhà nước quản lý sau” để Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện việc thiết lập bộ máy hành chánh đầu tiên ở Nam Bộ trong chuyến kinh lược vào năm 1698.
Cho đến nay, dù chưa biết đích xác những lưu dân Việt đặt chân lên xứ Đồng Nai vào thời điểm nào, nhưng chắc chắn, họ đã có mặt trước năm 1623, khi chúa Nguyễn thiết lập đồn thu thuế tại Preikor (địa điểm được xác định thuộc nội ô Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Sự có mặt của nhóm cộng đồng người Hoa được sử sách chép với mốc thời gian định vị rõ ràng. Sách Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Tháng 5 năm Kỷ vị (1679), Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, bầy tôi nhà Minh, không phục nhà Minh, đã dẫn 3.000 người với 50 chiếc thuyền nhập cửa biển Tư Dung, xin định cư ở nước Việt. Chúa Nguyễn chấp thuận và sai các tướng Vân Trình, Văn Chiêu hướng dẫn cho vào đất Đông Phố. Nhóm Long Môn của Dương Ngạn Địch theo cửa Đại, cửa Tiểu đến định cư tại Mỹ Tho. Nhóm Cao, Lôi, Liêm của Trần Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ đến sinh sống ở xứ Bàn Lân (tức Biên Hòa ngày nay)”.
Hơn ba trăm năm có lẻ, kể từ khi đặt chân đến vùng đất Đồng Nai “xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”, nhóm người Hoa bắt đầu tạo lập cuộc sống trên vùng đất mới. Họ cùng với người Việt – số di dân đến định cư trước, cần mẫn khai khẩn, mưu cầu về một cuộc sống ấm no hơn, hạnh phúc hơn nơi mà họ đã ra đi, dù trước mắt còn nhiều chông gai, trắc trở. Bao thế hệ người Hoa, từ đoàn di dân đầu tiên đến những đợt di cư  về sau, đã đến Đồng Nai để khai khẩn, xây dựng vùng “tị địa”, trước còn xa lạ, sau trở thành “quê hương” thân quen, bao dung họ.
Trải qua bao biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm trong suốt quá trình di cư, định cư ở Đồng Nai, người Hoa đã có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc khai phá, xây dựng vùng đất này. Bao cái còn, cái mất với thời gian bể dâu, cộng đồng người Hoa đã để lại những dấu ấn trong diễn trình lịch sử Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung. Mà ở đó, không chỉ là hoài niệm trong quá khứ của một thời đoạn lịch sử, của những cái đã từng tồn tại nay đã mất mà cả những điều tưởng chừng như vô hình lại trở thành hữu thể trong một đời sống tinh thần được thể hiện phong phú, đa dạng cho đến hôm nay.
Ngày nay, đi trên những nhánh sông chảy ngang địa phận thành phố Biên Hòa (Phước Long Giang xưa) ôm trọn Cù lao Phố êm ả, nếu không có sách sử chép, chúng ta khó nhận diện được một thương cảng sầm uất của xứ Đồng Nai – Gia Định cách nay hàng mấy thế kỷ. Tên gọi Cù lao Phố dân dã ấy lại là danh xưng dễ quen, dễ nhớ về một nơi từng được định danh “xứ đô hội” mà công đầu tạo dựng là của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên dẫn đầu thực hiện. Thương cảng Cù lao Phố được miêu tả tường tận dưới cái nhìn của Trịnh Hoài Đức như sau: “Trần Thượng Xuyên tướng quân chiêu tập người buôn nước Tàu đến kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới năm dặm, chia vạch làm ba đường phố, đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, đường phố nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng, kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền ở biển và ở sông đến đậu neo, có những chỗ liên tiếp nhau, một chỗ đại đô hội, những nhà buôn to lớn duy ở đây là nhiền hơn.” Trong lịch sử tồn tại, Cù lao Phố là nơi phát triển nhiều ngành nghề như dệt, làm chiếu, làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi tằm, trồng mía nấu đường… Đặc biệt, sản phẩm đường ở Cù lao Phố được xem là hàng đặc sản, được nhiều quốc gia lân cận đặt mua. Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ, thương cảng Cù lao Phố còn tiếp nhận các nguồn hàng từ các địa điểm vệ tinh vùng miệt thượng và hạ sông như Phước Thiền, Bến Gỗ, Bến Cá là những nơi có những người Hoa thạo nghề buôn bán sinh sống. Có thể nói, thương cảng Cù lao Phố là nơi hội nhập, phát triển nhiều mặt, trong đó mạnh mẽ nhất là thương mại thời bấy giờ ở Nam Bộ với cảnh: “…phố chợ thương mãi, giao thông với người Tàu, người Nhật Bản, Tây Dương, thuyền buôn tụ tập đông đảo, phong hóa Trung Quốc từ đây làm tỏa khắp vùng Giản Phố vậy”.
Thế nhưng, thương cảng sầm uất, kiến trúc phong quang của Cù lao Phố bị ảnh hưởng và tàn phá nặng nề qua cuộc bạo loạn của khách thương người Phúc Kiến là Lý Văn Quang năm 1747 và đặc biệt trong cuộc tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh vào năm 1776: “Từ đấy, chỗ này biến thành gò hoang, sau khi trung hưng, người ta tuy có trở về nhưng dân số không được một phần trăm như lúc trước”. Qua thời cuộc bể dâu, thời kỳ hoàng kim của Cù lao Phố tức xứ đô hội của Nông Nại đại phố đã trở thành dĩ vãng. Dấu vết của thương cảng, đô thị cổ vào loại bậc nhất ấy của Nam Bộ đã bị xóa nhòa. Những điều sử sách ghi chép về thương cảng nầy giúp cho thế hệ hậu sinh khi đến với mảnh đất nầy biết rằng: Ở đây, đã có một thời…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét