Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

Nguyễn Thị Rịa - Người khai phá xứ Đàng Trong thế kỷ XVII


Nguyễn Thị Rịa - Người khai phá xứ Đàng Trong thế kỷ XVII
Ngày 6/6/2008, bà Nguyễn Thị Hồng Xinh - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về Phú Yên tìm hiểu nguyên quán bà Nguyễn Thị Rịa, người có công xây dựng vùng đất Mô Xoài - còn gọi là Mỗi Xuy (nay là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) trong sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong thế kỷ XVII của Chúa Nguyễn.

Dưới sự chủ trì của bà Trịnh Thị Nga, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Phú Yên; Lãnh đạo Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch cùng các nhà khoa học xã hội tỉnh Phú Yên đã cung cấp cho đoàn đại biểu tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhiều cứ liệu lịch sử - văn hóa liên quan đến danh nhân Nguyễn Thị Rịa.

P-080813.jpg

I. Theo dòng lịch sử:

Đại Nam thực Lục (tiền biên) thể hiện rõ: năm 1578, Chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh đưa lưu dân (những người nghèo không sản nghiệp) vào vùng đất từ nam đèo Cù Mông đến Đèo Cả khai hoang lập ấp, chính thức mở đầu sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong trong công cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc.

Sau 33 năm xây dựng vùng đất mới, làng mạc hình thành, Chúa Nguyễn Hoàng chính thức thành lập phủ Phú Yên năm 1611 (trực thuộc Thừa tuyên Quảng Nam- đơn vị hành chính cấp tỉnh thứ 13 của Đại Việt). Năm 1613, Chúa Nguyễn Hoàng trối trăng lại cho người con thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi) dựa vào vùng đất mới từ Hoành Sơn (đèo Ngang) đến Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia) để xây dựng cơ nghiệp muôn đời, tiếp tục mở rộng cương vực vào phía Nam.

Năm 1620, Quốc vương Chân Lạp Prea Chey Chettra cầu thân với Chúa Sãi, xin cưới công chúa Ngọc Vạn lập làm hoàng hậu. Chúa Sãi ưng thuận. Sau đó Chúa Sãi còn gả công chúa Ngọc Khoa cho Chiêm Thành vương (Bình Thuận ngày nay) để tiện mượn đường đi lại.

Hai nàng công chúa lá ngọc cành vàng Ngọc Vạn, Ngọc Khoa đưa nhiều người Việt về quê chồng. Ngọc Vạn lập xướng thợ, mở tiệm buôn ở kinh đô Oudong. Chúa Nguyễn cử quân lính, thuyền chiến giúp người rể quý (vua Chân Lạp) chống lại các cuộc xâm lấn của vua Xiêm. Để trả ơn, vua Chân Lạp cho Chúa Sãi mượn đất Sài Côn (Sài Gòn) xây dựng cảng thị và cho lưu dân người Việt vào lập nghiệp ở Mô Xoài (nay là Bà Rịa). Chúa Sãi cấp ngưu, canh, điền, khí cho lưu dân, khuyến khích họ khai khẩn làm ăn ở vùng đất mới, năm 1623 lập hai đồn thu thuế ở Sài Côn, cử tướng lĩnh đến lập đồn bảo vệ lưu dân.

Năm 1629, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ly khai với Đàng Ngoài, xây dựng xứ Đàng Trong từ Sông Gianh vào đến Phú Yên được thành lập 7 dinh (đơn vị hành chính cấp tỉnh). Phủ Phú Yên được nâng cấp thành dinh Trấn Biên - có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp Nam tiến của dân tộc.

Mặc nhiên, các xứ Mô Xoài và Sài Côn trở thành khu vực biên cảnh do Dinh Trấn Biên (Phú Yên) phụ trách.

Năm 1653, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần cử Hùng Lộc Hầu từ Phú Yên vượt đèo Hổ Dương (đèo Cả) lập phủ Thái Khang (Khánh Hòa ngày nay) và sau đó một thời gian lập phủ Thuận Thành (Ninh Thuận - Bình Thuận ngày nay).

Đại Nam Thực Lục thể hiện rõ, trong thời gian 69 năm tồn tại từ 1629 đến 1698 (thời điểm thành lập phủ Gia Định với hai huyện Phước Long và Tân Bình có cương vực rất rộng, tương ứng với ngày nay gồm các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, TP Hồ Chí Minh và Long An), dinh Trấn Biên (Phú Yên) tiến hành hai chiến dịch quan trọng và ôn hòa vào phần đất phía Nam để khẳng định cuộc Nam tiến.

Chiến dịch lần thứ nhất, Thực Lục ghi: “Tháng sáu năm Mậu Tuất (1658) vua nước Chân Lạp Nặc Ông Chân xâm lấn biên thùy. Dinh trấn Biên (Phú Yên) báo lên. Chúa Hiền sai Phó tướng dinh Trấn Biên Tôn Thất Yến cùng cai đội Xuân Thắng, tham mưu Minh Lộc đem 3.000 quân đến Mỗi Xuy - tên Việt là Hưng Phước (nay thuộc huyện Long Điền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội và đưa người hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm nộp cống”.

Phó tướng Tôn Thất Yến hành quân vào Mỗi Xuy là thi hành nhiệm vụ an ninh trật tự trên phần lãnh thổ nội thuộc, dẫu chưa chính thức đặt thành phủ huyện.

Chiến dịch lần thứ hai, năm Mậu Thân 1668, hai tướng cũ nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch thần phục chúa Nguyễn được Chúa cử vào khai khẩn vùng biên cảnh. Tháng Giêng năm Kỷ Mùi (1679), hai tướng nhà Minh bị phó tướng Hoàng Tiến mưu phản. Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Trăn cử Mai Vạn Long (tướng Dinh Trấn Biên Phú Yên) làm thống binh vào dẹp tan và đóng quân ở đó.

Tháng hai năm Mậu Dần (1698) chúa Minh Nguyễn Phúc Chu cử Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, lập phủ Gia Định.

Trong 69 năm đóng vai trò trấn biên (1629-1698), Dinh Trấn Biên Phú Yên đã đóng góp sức người, sức của bảo vệ và xây dựng vùng biên cảnh Mỗi Xuy và cả Đồng Nai - Gia Định, đưa nhiều lưu dân vào khai phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp Nam tiến vĩ đại của dân tộc.

Tiêu biểu nhất trong những lưu dân ấy còn lưu dấu ấn trong sử sách là bà Nguyễn Thị Rịa - người có công lao to lớn trong xây dựng vùng đất Mỗi Xuy và nhiều cứ liệu đáng tin cậy thể hiện rằng, nhân dân đã lấy tên Bà Rịa đặt cho vùng đất này để ghi nhớ công lao của Bà.

II. Đôi nét về Bà Rịa:

Sự nghiệp khai phá xứ Đàng Trong cuối thế kỷ XVII được thể hiện trong hai sử liệu quan trọng, đó là “phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn và “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức.

Trịnh Hoài Đức (1765-1825), bắt đầu làm quan năm 1788 khi chúa Nguyễn Ánh lấy lại đất Gia Định. “Gia Định thành thông chí” được viết trong khoảng thời gian Trịnh Hoài Đức làm Hiệp Tổng trấn Gia Định Thành (1805-1808) và 1816.

“Gia Định thành thông chí” là bộ địa lý học - lịch sử được biên soạn công phu theo thể loại địa chí, gồm 6 quyển ghi chép về Trấn, trong đó có tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay. Trong bộ sách này, Trịnh Hoài Đức ghi chép tỉ mỉ cụ thể từng tên sông, tên núi, tên vùng đất mà còn giải thích cặn kẽ ý nghĩa của các địa danh ấy.

Về Bà Rịa, Trịnh Hoài Đức đề cập như sau: Bà Rịa người Phú Yên (1665-1759). Năm 15 tuổi (1670) thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), bà có mặt trong đoàn lưu dân từ Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào nam lập nghiệp. Nơi đến là vùng đất rộng lớn, có địa hình lồi lõm phức tạp, nổi tiếng là vùng nước độc, chướng khí, có nơi đầm lầy lau sậy mịt mù, có rất nhiều thú dữ. Khi đặt chân đến vùng rừng thiêng nước độc này, bà lao vào công việc khai khẩn ở vùng rừng núi Đồng Xoài (xã Hòa Long), tiếp đó hướng về hướng biển đến Lữ Khê rồi mở rộng ra vùng Gò Xoài - Phước Liễu (xã Tam An - do hai xã An Nhất và Tam Phước hợp nhất) và tiếp tục khai hoang đến Láng Dài - Xuyên Mộc. Đặc biệt, Bà Rịa huy động dân chúng sửa chữa cầu cống, đường sá bị hư hỏng nặng do bão lũ, giúp đoàn quân của Nguyễn Hữu Cảnh hoàn thành nhiệm vụ. Bà Rịa không rõ họ gì, có công lớn trong việc khai hoang lập ấp, là người đức độ có uy tín khắp cả vùng. Với những công trạng đó, bà được Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1752) phong tước Hàm Nghè và sắc phong cho mang họ nhà Chúa, từ đó có tên là Nguyễn Thị Rịa.

Bà Nguyễn Thị Rịa sống qua năm đời Chúa Nguyễn và mất năm 1759 thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) tại Hắc Lăng, Phước Liễu (xã Tam An) hưởng thọ 94 tuổi. Bà Rịa không có con cái, 300 mẫu ruộng của bà khai khẩn được sung vào công điền chia cho người nghèo. Hiện nay, mộ và miếu thờ bà Nguyễn Thị Rịa ở xã Tam An, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, phần bia mộ còn khắc dòng chữ “Nguyễn Thị Rịa tiên nương”. Năm 1902, Trường Viễn đông bác cổ Đông Dương xây lại mộ Bà Rịa, năm 1936, chính quyền sở tại cho sửa sang lại để ghi nhớ công lao của Bà.

III. Những ý kiến khác nhau về địa danh Bà Rịa:

1. Gia Định Thành thống chí của Trịnh Hoài Đức bên cạnh ca ngợi bà Nguyễn Thị Rịa cũng viện dẫn tài liệu Trung Quốc đưa ra một số giả thiết để cắt nghĩa địa danh Bà Rịa và xếp loại đây là một địa danh chưa rõ ràng bởi có nhiều cách giải thích khác nhau.

Các tác giả dựa vào thư tịch cổ Trung Quốc, cụ thể là Tân Đường thư: “Bà Ly ở ngay phía đông nam Chiêm Thành từ Giao Châu đi ghe theo biển, trải qua các nước Xích Thố, Đan Đan rồi đến đại địa châu Đà Mã (cũng gọi là Mã Lễ, quốc tục xỏ tai, đeo hoa, lấy một bức vải quấn ngang lưng) phía nam nước ấy có Thủ Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (651-655) bị Chân Lạp thôn tính”.

Căn cứ Tân Đường thư, Trịnh Hoài Đức viết: Bà Rịa là ở đầu biên giới trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, cho nên các phủ phía Bắc có câu ngạn (ngữ) rằng “Cơm - Nai - Nịa, Cá Rí - Rang”.

Trịnh Hoài Đức là người Minh Hương, tuân thủ đặc điểm ngữ âm tiếng Hán nên ông cắt nghĩa: “Tra theo chánh văn thì chữ Lợi âm là lục địa, thiết âm là lịa, vậy nghi chữ Bà Rịa tức là nước Bà Lợi thuở xưa” (1).

Một số học giả theo hướng này (2) giải thích địa danh Bà Rịa bắt nguồn từ vương quốc Bà Lợi, Bà Ly, Bà Lịa hoặc cho rằng Bà Rịa vẫn là tên đất (Bàn Ray, Bàn Rey) do biến âm trở thành Bà Rịa.

2. Địa danh Bà Rịa được cấu tạo theo phương thức chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa - một người phụ nữ quê gốc Phú Yên có công to lớn khai khẩn vùng đất này. Dùng nhân danh chuyển hóa thành địa danh là phương thức cấu tạo địa danh quen thuộc của địa danh học.

Các nhà nghiên cứu người Pháp đồng tình theo hướng này. Hiệp hội nghiên cứu Đông Dương (Societé dus Études Indochinoises) xuất bản cuốn “địa chí Bà Rịa” căn cứ sự lưu truyền của dân gian, giải thích nguồn gốc địa danh Bà Rịa là để tưởng nhớ bà Nguyễn Thị Rịa.

Xuất phát từ quan điểm này, Viện Viễn đông bác cổ Pháp (E.F.EO) xây dựng lại mộ Bà Rịa năm 1902 và được chính quyền địa phương trùng tu năm 1936 (3).

Tuy nhiên, sách “Địa chí Bà Rịa” năm 1902 có một chi tiết chưa chính xác. Tài liệu này nói rằng Bà Rịa vào nam khai khẩn đất hoang lập làng Phước Liễu năm 1789 và mất năm Gia Long thứ hai (1803). Không đồng tình về mốc thời gian này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (tác giả Địa bạ Phú Yên và Địa bạ Bà Rịa - Vũng Tàu) khẳng định: Trong danh mục “Các họ đạo của xứ Đồng Nai từ năm 1747 có ghi rõ Bà Rịa có 140 giáo dân và Đất Đỏ có 350 người theo đạo Công giáo (4). Như vậy vùng đất có địa danh Bà Rịa đã có từ trước đó rất lâu.

Theo chúng tôi, địa danh Bà Rịa được chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa. Quan điểm này được soi sáng và có căn cứ vững chắc dưới nhiều phương pháp tiếp cận khoa học về lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn hóa dân gian.


Về mặt lịch sử, từ dinh Trấn Biên (Phú Yên), theo tiếng gọi của các chúa Nguyễn, có nhiều đoàn di dân được Nhà nước tổ chức khai khẩn vùng đất biên cảnh ở Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay) trong thế kỷ XVII, trong đó có bà Nguyễn Thị Rịa.

Về mặt dân tộc học, có tài liệu của Trung Quốc như Hán thư, Đường thư chỉ đề cập đến quận Nhật Nam mà nhà Hán đã từng tạm chiếm. Biên giới quận NhậtNam là Lăng già Bát Bạt Đa (phiên âm địa danh Chăm Linga Pravta - Linga đại sơn thần) - tức núi Đá Bia. Ngoài ngọn núi này là “Nhật Nam ngoại khiếu” (ngoài cõi Nhật Nam). Tân Đường thư đề cập đến Vương quốc Bà Ly nào đó là mơ hồ.

Về mặt ngôn ngữ học, không có phương thức biến thể ngữ âm (dân gian gọi là đọc trại) từ Bà Lợi, Bà Ly, Bà Lịa thành Bà Rịa hoặc từ Bà Ray - Bàn Rey thành Bà Rịa.

Về nhân danh, quê gốc Phú Yên có nhiều người tên Rịa. Thế kỷ XX còn có anh hùng thời chống Mỹ Trần Rịa đang được HĐND Phú Yên chọn đặt tên đường.

Về văn hóa dân gian, làng Phước Liễu xã Tam An nói có mộ bà Nguyễn Thị Rịa có phương thức cấu tạo địa danh giống với quê gốc Phú Yên. Xã Tam An do hai xã An Nhất và Tam Phước nhập lại. Xã An Nhất (cũ) có các làng An Lạc, An Hòa, An Đồng, An Trung…

Mộ Bà Rịa vẫn còn đó. Cây cầu nối Tam Phước - An Nhất (nơi Bà Rịa khai hoang 300 mẫu ruộng) được mang tên là cầu Bà Nghè (Bà Rịa được Chúa Nguyễn Phúc Chu phong Hàm Nghè - như tiến sĩ danh dự ngày nay) vẫn còn đó. Ngày giỗ bà Nguyễn Thị Rịa là ngày 16/6 âm lịch, cúng lúc 12 giờ vẫn là một phong tục đẹp mà nhân dân địa phương tiến hành hàng năm.

Từ những căn cứ trên, nhiều nhà khoa học tán thành cách giải thích địa danh Bà Rịa được chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa trong phương thức cấu tạo địa danh. Điều đó càng nâng thêm niềm tự hào về lịch sử và di sản của các bậc tiền nhân để lại cho hậu thế.

———
(1): Trịnh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí, tập thượng, quyển I và II Nhà văn hóa phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn 1972, tr 35-36.

(2) Nguyễn Đình Thống, Địa danh Bà Rịa, Tạp chí Xưa và Nay 5/1998, “Thần và Đất” công trình nghiên cứu của tiến sĩ Đinh Văn Hạnh.

(3) Monographie de Bà Rịa, Publ de la SEI, Sài Gòn, 1902, tr 61.

(4) Đại Nam Nhất thống chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa 1992, tập V, trang 60.

Th.sĩ Phan Thanh Bình

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét